Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Tiếp tục hoàn thiện thể chế thương mại trong bối cảnh nền kinh tế số: Thực trạng và giải pháp trong thời gian tới

TCCS - Thể chế thương mại đã được triển khai xây dựng, ban hành và thực thi ngay sau ngày thống nhất đất nước. Trong bối cảnh nền kinh tế số, để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế thương mại, cần tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản25/04/2025

Thực trạng thể chế thương mại ở Việt Nam thời gian qua 

Thể chế là một khái niệm với nội hàm bao gồm ba nội dung quan trọng là “luật chơi” - chính thức và phi chính thức; “cách chơi” - cơ chế thực thi và “người chơi” - con người, tổ chức gắn với hành vi của chúng. Mỗi quốc gia phải tìm cho mình một thể chế thích hợp. Việc thực thi là nhân tố quyết định chất lượng thể chế. Các nền kinh tế thành công có thể chế khác nhau và sự phát triển của các nước có thể chế tương đối giống nhau cũng khác nhau. Thể chế luôn cần được hoàn thiện, thay đổi, tiệm tiến song hành với cải cách cấp tiến, đột phá nếu thấy cần thiết. Một thể chế được xem là “tốt” nếu nó góp phần làm giảm chi phí giao dịch đi cùng biện pháp hạn chế xung đột. Cải cách thể chế là một yếu tố không thể thiếu trong tư duy điều hành phát triển kinh tế - xã hội và đã chứng tỏ là hữu ích, hiệu quả ở nhiều quốc gia. Trong quá trình thực thi, vai trò của nhà nước và thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Nhìn lại ba thập niên đã qua, với chính sách, quy định đã ban hành, trong đó có chính sách, quy định về phát triển kinh tế số(1), thương mại và thị trường đã góp phần tạo nên bức tranh kinh tế với nhiều gam màu tươi sáng trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau.

Thành tựu đạt được

Theo báo cáo tổng kết của Bộ Công Thương năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của nước ta tiến sát mốc 800 tỷ USD, đánh dấu kỷ lục về ngoại thương Việt Nam. Cán cân thương mại xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp với 23 tỷ USD, góp phần bảo đảm cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối cho nền kinh tế… Một thị trường thống nhất và ổn định trong toàn quốc đã hình thành, về cơ bản đã đáp ứng được những nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2024 đạt khoảng 6.449 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023. Báo cáo của Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) năm 2024 cho thấy, mạng lưới kinh doanh, thương mại, dịch vụ tiếp tục “phủ sóng” trên các địa bàn, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ, hàng hóa với thị trường, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Số liệu thống kê sơ bộ từ báo cáo của các sở công thương, tính đến cuối năm 2023 cả nước có 8.318 chợ. Theo số liệu của Nielsen, hiện nay Việt Nam có khoảng gần 2 triệu cửa hàng tạp hóa. Đến cuối năm 2023, cả nước có 266 trung tâm thương mại, 1.260 siêu thị và hơn 230.000 cửa hàng tiện lợi.

Hoạt động livestream bán hàng trực tuyến của các tiểu thương chợ Cồn, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng sau Lễ phát động Chợ livestream bán hàng - Đà Nẵng 2024 do Sở Công thương thành phố Đà Nẵng phối hợp với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam tổ chức_Ảnh: TTXVN

Cơ chế, chính sách quản lý thương mại tiếp tục được hoàn thiện. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành: i- Nghị định bãi bỏ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP, ngày 12-6-2006, của Chính phủ, “Quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện”; ii- Nghị định số 55/2024/NĐ-CP, ngày 16-5-2024, “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”; iii- Quyết định số 07/2024/QĐ-TTg, ngày 20-6-2024, “Ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung”.

Trong năm 2024, Bộ Công Thương trình Chính phủ xem xét, ban hành hai nghị định: Nghị định số 14/2024/NĐ-CP, ngày 7-2-2024, “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2018/NĐ-CP, ngày 1-3-2018, của Chính phủ, Quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về một số biện pháp phát triển ngoại thương” và Nghị định số 128/2024/NĐ-CP, ngày 10-10-2024, “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP, ngày 22-5-2018, của Chính phủ, “Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại””.

Đến nay, một số cấu phần nền tảng trong hệ sinh thái xúc tiến thương mại số đã và đang được hoàn thiện, đưa vào sử dụng bao gồm: i- Hệ thống quản trị thông tin và điều hành xúc tiến thương mại (Vietrade CRM); ii- Hệ thống đào tạo trực tuyến (Vietrade Edu); iii- Hệ thống truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại (iTrace 247); iv- Bản đồ xúc tiến thương mại sản phẩm nông sản Việt Nam (Vietrade Map); v- Phần mềm hỗ trợ tổ chức hội nghị, hội thảo và các sự kiện xúc tiến thương mại (Event Automation); vi- Nền tảng tổ chức hội chợ triển lãm trực tuyến (Virtual Exibition) và một số nền tảng, hệ thống khác đang được nghiên cứu xây dựng…

Công tác hỗ trợ tiêu thụ nông sản, thực phẩm tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần hỗ trợ, tháo gỡ đầu ra sản phẩm nông nghiệp cho nông dân (chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Quyết định số 194/QĐ-TTg, ngày 9-2-2021, phê duyệt Đề án “Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”).

Thương mại điện tử Việt Nam tiếp tục phát triển trở thành kênh phân phối quan trọng. Theo báo cáo của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương), năm 2024, quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ Việt Nam vượt mốc 25 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 9% so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước, tăng 20%/năm so với năm 2023, chiếm 2/3 giá trị kinh tế số Việt Nam, được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới. Có tới 53% số doanh nghiệp xuất khẩu thông qua sàn thương mại điện tử. Theo Amazon Global Selling Việt Nam, năm 2024, hơn 17 triệu sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu, tăng 50% về giá trị và 40% về số đối tác.

Với tốc độ tăng trưởng khoảng 18%/năm, Việt Nam được eMarketer xếp vào nhóm 5 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới, tạo động lực phát triển kinh tế và dẫn dắt chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Hiện nay, có nhiều sàn thương mại điện tử quốc tế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam bán hàng xuyên biên giới, như Amazon, eBay, Alibaba, Etsy, Shopify(2).

Trong quản lý nhà nước về ngoại thương, nhiều văn bản quy phạm liên quan đến lĩnh vực xuất, nhập khẩu được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn cũng như yêu cầu quản lý của nhà nước. Trong đó, đặc biệt quan trọng là Luật Quản lý ngoại thương đã được Quốc hội khóa XIV thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-1-2018, với 5 nghị định quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương đã được xây dựng, ban hành. Để thích ứng với thực tiễn, Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại, thay thế Nghị định số 10/2018/NĐ-CP, ngày 15-1-2018, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại” đã được ban hành.

Quy phạm pháp luật về quản lý và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới theo hướng cải cách, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Bước đầu áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành ở mức độ, hình thức khác nhau. Nhiều thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành được điện tử hóa. Một số quy định chồng chéo trong kiểm tra chuyên ngành cũng đã được xử lý. Giai đoạn 2015 - 2020, Việt Nam bãi bỏ khoảng 40 văn bản quản lý chuyên ngành; ban hành, sửa đổi, bổ sung 70 văn bản. Năm 2020, số nhóm hàng hóa còn chịu sự quản lý chồng chéo là 13 (so với 38 vào năm 2017). Hiện nay, tỷ lệ tờ khai phải quản lý, kiểm tra chuyên ngành giảm xuống còn 19%, từ mức 30% vào năm 2015. Chương trình thí điểm tự nguyện tuân thủ; cơ chế một cửa quốc gia, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); chương trình doanh nghiệp ưu tiên và Đề án Cải cách mô hình kiểm tra chất lượng đã có chuyển động tích cực(3).

Bộ Công Thương triển khai 47 dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu ở cấp độ 3 và 4 trên Cổng dịch vụ công trực tuyến Bộ Công Thương, tại địa chỉ http://online.moit.gov.vn. Đây đều là thủ tục hành chính có số lượng hồ sơ nhiều, ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất, nhập khẩu, kinh doanh của doanh nghiệp. Việt Nam đang vượt tiến độ thực hiện cam kết trong Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng rất nhiều công cụ, như điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, quy định biên độ xác định tỷ giá, mua bán trên thị trường ngoại hối,… nhằm cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, duy trì xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp, tham gia đàm phán, ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và 1 FTA đang đàm phán(4). Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 thị trường.

Khó khăn và một số vấn đề đặt ra

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể nói kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là kinh tế gia công lắp ráp, chỉ gần 30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được tạo ra trong nước. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh mặt được, thể chế thương mại vẫn còn một số bất cập:

Một là, công tác cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính còn chậm. Vẫn còn tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” trong cải cách thể chế do bất cập về “tầm nhìn và khoảng cách” giữa thể chế giữa trong nước và ngoài nước.

Hai là, chưa thiết lập được một cơ chế đồng bộ nhằm phát huy hiệu quả của từng công cụ và hệ thống công cụ quản lý cũng như cơ chế tạo lập mối liên hệ lâu dài, bền vững giữa sản xuất với lưu thông. Chưa có nhiều doanh nghiệp và hệ thống phân phối đủ mạnh, tương xứng với đối tác quốc tế trong quá trình hội nhập và mở cửa.

Ba là, “chuỗi giá trị” hay “liên kết bốn nhà” chưa chạm đến phần lõi thực tế. Thị trường miền núi, vùng cao, biên giới vẫn mang tính chất sơ khai của nền thương mại nhỏ.

Bốn là, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu cao, nhưng chưa bền vững khi cơ cấu thị trường còn chậm chuyển dịch. Nền kinh tế chưa khai thác hết lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý để tạo ra nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Khuyến khích nhập khẩu cạnh tranh chưa đạt được kỳ vọng. Chính sách, giải pháp tạo lập và nâng cao năng lực tham gia của hàng nông sản vào chuỗi giá trị toàn cầu còn nhiều bất cập. Theo số liệu của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tính đến cuối năm 2024, đã có 272 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 25 thị trường và vùng lãnh thổ điều tra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, bao gồm điều tra chống bán phá giá (149 vụ việc), các vụ việc tự vệ (54 vụ việc), chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (39 vụ việc) và chống trợ cấp (30 vụ việc). Tính riêng năm 2024, có 26 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (Mỹ chiếm gần 50% tổng số vụ việc đã khởi xướng điều tra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Năm là, tuy hệ thống thuế của Việt Nam đã được cải thiện khá nhiều trong những năm qua, nhưng nếu xét trên quan điểm của một hệ thống thuế quan hiện đại cho một nền kinh tế mở trong quá trình hội nhập, vẫn còn nhiều quy định  cần điều chỉnh. Bên cạnh đó, khó khăn lớn nhất của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam khi triển khai công nghệ mới là không gắn kết được lợi ích của chuyển đổi số với mục tiêu kinh doanh, không biết bắt đầu chuyển đổi số từ đâu, chưa tìm được mô hình nào phù hợp với đặc thù của riêng mình và cũng chưa tìm được đối tác đồng hành. Hoạt động thương mại điện tử Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, xuất khẩu trực tuyến với doanh nghiệp Việt Nam còn mới mẻ.

Sáu là, trong thời gian tới, hàng Việt Nam cũng sẽ vấp phải sức “công phá” mạnh mẽ của hàng ngoại “đổ bộ” vào. Điều này đặt ra vấn đề bảo vệ thị trường trong nước vừa bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế, vừa tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh. Các thị trường xuất khẩu truyền thống sẽ trở nên “vời xa” do yêu cầu cao về an toàn cho người tiêu dùng, thích ứng với biến đổi khí hậu, tiêu chuẩn, quy định liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động, môi trường, là hàng loạt khó khăn không dễ gì khắc phục trong một sớm, một chiều.

Bảy là, trong hoạt động thương mại điện tử, vấn đề kiểm soát hàng giả, hàng nhái, hàng cấm, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng kém chất lượng vẫn còn diễn biến phức tạp. Mô hình thương mại điện tử phát triển ngày càng phức tạp, đa dạng và chưa có quy định pháp luật điều chỉnh riêng biệt, đặc biệt là đối với hoạt động bán hàng dưới hình thức phát sóng video trực tiếp trên các nền tảng mạng xã hội (livestreams bán hàng). Nghị định số 85/2021/NĐ-CP, của Chính phủ, “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, ngày 16-5-2013, của Chính phủ, “Về thương mại điện tử” đã có quy định ban đầu về điều kiện áp dụng cho chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử xuyên biên giới vào thị trường Việt Nam, nhưng quy định chưa đủ mạnh và lan tỏa, dẫn đến việc nhiều nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới vào thị trường Việt Nam khi chưa hoàn thành thủ tục pháp lý chính thức.

Tám là, theo một số nghiên cứu, hệ thống thương mại toàn cầu đang trải qua thay đổi về kết cấu sẽ định hướng lại chuỗi cung ứng quốc tế trong nhiều thập niên tới. Sự gia tăng bất ổn thương mại và biện pháp hạn chế thương mại sẽ làm phân mảnh hệ thống thương mại toàn cầu. Có thể nói, đây chính là thời điểm tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại gắn với việc nhận diện xu thế; định vị thị trường, đối tác; xác định cách thức chuyển đổi số; nâng cấp quản trị (cả quản trị rủi ro); sáng tạo sản phẩm; đào tạo kỹ năng mới cho người lao động,… Nhà nước chuyển từ vai trò chỉ huy, kiểm soát và quản lý sang kiến tạo phát triển và phục vụ người dân và doanh nghiệp. Chức năng, cơ cấu tổ chức bộ máy, công cụ và năng lực cần có để thực hiện vai trò của Nhà nước vì thế cũng phải thay đổi tương ứng.

Nông dân tại Bến Tre ứng dụng thương mại điện tử kết nối thị trường thông qua các nền tảng mạng xã hội, sàn thương mại điện tử…_Ảnh: TTXVN

Định hướng và giải pháp trong thời gian tới

Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế… “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế” là đột phá chiến lược, khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng(5).

Ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là Nghị quyết đặc biệt quan trọng, lấy chuyển đổi số và công nghệ cao làm mũi nhọn phát triển và chấn hưng đất nước, là luồng gió mới, soi rõ con đường vươn lên phía trước của dân tộc Việt Nam. Nghị quyết số 57-NQ/TW vừa là quyết tâm của Đảng, vừa thể hiện khát vọng của dân tộc, kịp thời, đúng thời điểm khi cả dân tộc chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới.

Diễn biến trong năm 2024 cho thấy, kỳ vọng về tự do thương mại với dự báo sẽ làm cho “thế giới phẳng” hơn mà Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) làm nền tảng sẽ không còn và về thực tế sẽ càng ngày càng bị chính trị hóa. Kinh tế toàn cầu năm 2025 tiếp tục đối diện với rủi ro, bất định, khó lường. Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho một giai đoạn mà vai trò sản xuất hàng gia công cho các nước khác không còn là xu thế chủ đạo, hàng rào thuế quan và kỹ thuật được dựng lên khắp nơi trên thế giới và phá sản doanh nghiệp sẽ là hiện thực.

Đẩy mạnh hội nhập thương mại chiều sâu, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy các hoạt động sử dụng công nghệ cao với kỹ năng chuyên sâu và thúc đẩy khu vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao, chuyển đổi sang mô hình sản xuất phát thải các-bon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu… được xem là kim chỉ nam cho việc vận hành thể chế thương mại trong thời gian tới.

Phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước nhằm khai thác hiệu quả thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa trong nước, đặc biệt là hàng hóa nông sản; đổi mới, tổ chức kết nối cung cầu trong nước trên môi trường trực tuyến và dựa trên nền tảng mới, tạo kênh tiêu thụ thuận lợi, ổn định đi đôi với việc tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, khắc phục và vượt qua hàng loạt “rào cản” đã, đang và sẽ xuất hiện. Bám sát và đón đầu xu hướng phải được coi là tư tưởng chủ đạo, là quan điểm xuyên suốt và “bao phủ” toàn bộ quá trình phát triển thương mại và thị trường. Việc hoàn thiện và đổi mới thể chế thương mại phải đặt trong bối cảnh thúc đẩy tăng trưởng bền vững, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái, vừa phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế, vừa chủ động cạnh tranh ở ngay thị trường trong nước. Theo đó, trong thời gian tới:

 Đối với thị trường trong nước

Trong 4 phân ngành (nghề) của dịch vụ phân phối, dịch vụ bán lẻ là phân ngành phát triển mạnh mẽ nhất, xu hướng này vẫn đang tiếp tục. Trong một tương lai gần, phải “đón đầu” xu hướng phát triển của dịch vụ bán buôn. Khi ngày càng có nhiều thương hiệu Việt Nam, cần có chính sách khuyến khích “bên nhượng” và hỗ trợ “bên nhận” để phân ngành này “nở rộ” - hướng tới hàng triệu doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh trên khắp mọi miền đất nước.

Tập trung giải quyết việc giảm thiểu thủ tục hành chính, loại bỏ giấy phép không cần thiết, tạo điều kiện để mọi hoạt động thương mại diễn ra trôi chảy. Trên cơ sở đó, cần tạo đột phá về đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, thu thuế, hải quan, kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp.

Đổi mới quản lý theo hướng thống nhất quản lý nhà nước của Bộ Công Thương đối với hoạt động thương mại đòi hỏi tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý, hình thành hệ thống quản lý nhà nước về thương mại thống nhất từ Trung ương đến quận, huyện. Phân định rõ vai trò, nhiệm vụ các sở, định hình cơ quan quản lý hành chính - kinh tế nhà nước trên địa bàn quận, huyện, xác định giới hạn trách nhiệm và mối quan hệ giữa các tổ chức quản lý, như bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, sở, quận, huyện,…

Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, liên kết là yêu cầu tất yếu. Vấn đề quan trọng là phân công và hợp tác trong quá trình phát triển để khai thác tối đa lợi thế thương mại và thị trường của vùng, liên vùng, bảo đảm lưu thông, xóa bỏ tình trạng “cát cứ”. Cần khuyến khích phát triển hệ thống phân phối xanh và tiêu dùng xanh và kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực thương mại. Đẩy mạnh liên kết bền vững giữa sản xuất - phân phối - tiêu dùng cũng như gia tăng sự hiện diện của sản phẩm được dán nhãn xanh, thân thiện môi trường tại cơ sở phân phối.

Trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu

Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan cần tiếp tục xem xét, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan tới hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ giảm, giãn, hoãn một số loại thuế, tạo thêm nguồn lực cho doanh nghiệp phát triển. Áp dụng đầy đủ và rộng rãi hơn nguyên tắc quản lý rủi ro, giảm thiểu điểm chồng chéo giữa các quy định về kiểm tra chuyên ngành.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có giải pháp, chính sách hướng tín dụng vào sản xuất, kinh doanh (nhất là gói tín dụng theo chuỗi giá trị sản phẩm). Nghiên cứu để có chính sách về khoanh, giãn, hoãn và giảm nợ cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Với mặt hàng liên quan đến hạn ngạch, cần tăng cường công tác đàm phán và thống nhất sớm với các nước về cơ chế cấp hạn ngạch, đặc biệt là cho một số sản phẩm nông, lâm, thủy sản để doanh nghiệp có thể xây dựng kế hoạch xuất khẩu dài hạn.

Xét ở cấp độ quốc gia, Việt Nam vẫn đang thiếu một cơ sở pháp lý chung trong quản lý GI (chỉ dẫn địa lý). Theo đó, cần: i- Hình thành nhóm làm việc về GI với các quốc gia thành viên trong FTA để chuẩn bị triển khai thực hiện công việc liên quan đến GI ngay sau khi FTA có hiệu lực; ii- Có hướng đi tập trung vào sản phẩm mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sang các nước thành viên FTA; iii- Chỉ đạo các bộ/ngành, địa phương tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao hiểu biết và thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng GI trên thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh và hưởng ưu đãi của FTA.

Đẩy nhanh việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), ứng dụng hình thức cấp C/O qua internet,… nhằm giúp nhà xuất khẩu Việt Nam tích cực, chủ động sử dụng C/O để tăng cao tính cạnh tranh của hàng hóa và tận dụng được ưu đãi trong FTA.

Việc hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để khuyến khích nhập khẩu cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và hàng sản xuất thay thế nhập khẩu có thể xem là hướng đi - định hướng hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, cần tiếp tục:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật. Mở rộng hợp tác khu vực để hài hòa hóa tiêu chuẩn; cần có biện pháp nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ việc nhập khẩu công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu.

Thứ hai, kết hợp thuế bảo vệ môi trường vào hệ thống thuế nhập khẩu. Thử nghiệm đấu giá giấy phép nhập khẩu đối với hàng hóa gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái. Đây là chính sách cần thiết, tác động điều chỉnh trực tiếp đối với sản phẩm gây hại đến môi trường, phát thải chất gây hiệu ứng nhà kính.

 Đối với khu vực biên giới, cần quan tâm việc sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển kết cấu hạ tầng thương mại. Ngoài chợ, Nhà nước cần xem xét bổ sung dự án đầu tư hạ tầng thương mại chủ yếu khác (kho, trung tâm logistics, khu chế biến,…) vào danh mục được hưởng ưu đãi đầu tư. Doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại cần được hưởng chính sách khuyến khích đầu tư như dự án về nông nghiệp.      

Đối với hội nhập kinh tế quốc tế

Để hội nhập chủ động, hiệu quả, cần lưu tâm các vấn đề sau đây: 1- Rà soát, đối chiếu quy định pháp luật Việt Nam vừa bảo đảm phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam; 2- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, kiện toàn hệ thống cơ quan về hợp tác kinh tế quốc tế.

Đối với biện pháp phi thuế quan, phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể, gắn với tình hình thực tiễn từng thời kỳ, có thể nghiên cứu biện pháp phi thuế quan theo các nhóm biện pháp sau: Loại 1: Các biện pháp phi thuế quan phổ thông trong khuôn khổ WTO; Loại 2: Các biện pháp kỹ thuật; Loại 3: Các chính sách vĩ mô khác có tác động gián tiếp, như cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh toán, lãi suất, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư,... Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, trước mắt, cần tiếp tục duy trì yêu cầu nội địa hóa như là một trong các điều kiện của đầu tư, nhưng giảm bớt số ngành, số sản phẩm thuộc đối tượng của chính sách này, chỉ tập trung vào một số ít sản phẩm quan trọng, thật cần thiết để kích thích sự phát triển của ngành có liên quan, tạo ra sản phẩm có thương hiệu Việt Nam. Về lâu dài, cần đưa ra lộ trình bãi bỏ quy định về nội địa hóa đối với tất cả sản phẩm.

Song song với việc làm trên, cần thiết lập chương trình đánh giá định kỳ hằng năm về hiệu quả thực thi FTA một cách toàn diện, qua đó, nhận diện và xử lý kịp thời vấn đề cản trở. Trong đó, tập trung đánh giá công tác thể chế, pháp luật, thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động thực thi FTA (đặc biệt là thủ tục xuất, nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành; cấp giấy chứng nhận xuất xứ theo FTA; cấp phép và quản lý đầu tư). Cùng với đó, đánh giá tình hình thực thi FTA của doanh nghiệp, đặc biệt là về mức độ hiểu biết, khả năng tận dụng, ảnh hưởng của FTA, lực cản trong thực thi FTA của doanh nghiệp... Cục Xuất, nhập khẩu (Bộ Công Thương) cần thiết lập một tổng đài thông tin, giải thích với doanh nghiệp về quy tắc xuất xứ trong các FTA, công bố rộng rãi về tổng đài trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó, doanh nghiệp biết đến và có thể xin hướng dẫn, tư vấn để hiểu, thực hiện, đáp ứng các quy tắc xuất xứ trong các FTA.

Trong dài hạn, nghiên cứu và xúc tiến việc đàm phán các FTA mới, ở dạng thức thích hợp (song phương, đa phương, khu vực) với một số thị trường tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam (Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt là Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) - khu vực kinh tế nhiều tiềm năng, không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam; châu Phi, thông qua Liên minh châu Phi hoặc lựa chọn các nền kinh tế lớn trong khu vực...).

Nâng cấp Cổng thông tin một cửa quốc gia để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiến tới số hóa hồ sơ, số hóa quy trình, thủ tục, giảm đầu mối tiếp xúc giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

Nghiên cứu phát triển một cổng thông tin chung về quản lý, giám sát thông tin sản phẩm. Qua đó, có thể đưa thông tin của hợp tác xã, ngành hàng, giá bán, giá mua nông sản,… chủ thể có nhu cầu dễ dàng tiếp cận, tiến tới tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sẽ được minh bạch thông tin.

Thêm vào đó, hiện nay mô hình kinh doanh trên nền tảng số đang chiếm lĩnh và lấn át mô hình truyền thống, cần hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số. Chính sách và quy định xuyên suốt để định hình nền kinh tế số vừa cần bảo đảm phù hợp với yêu cầu, điều kiện của Việt Nam; vừa bảo đảm tính hiện đại, xuyên suốt, bao phủ, như chính sách và quy định liên quan đến các luồng dữ liệu xuyên quốc gia, bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, bảo vệ khách hàng, giao dịch điện tử, thuế… Nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng, ban hành Luật Chuyên ngành về thương mại điện tử nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới .../.

----------------

(1) Như: Luật Thương mại, Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng; các giải pháp điều tiết, kết nối cung cầu, bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu và bình ổn thị trường; Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Đề án Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030; Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025; Chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030…
(2) Xem: Bộ Công Thương: Báo cáo của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số
(3) Xem: Báo cáo tổng kết của Tổng cục Hải quan
(4) Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Khối EFTA (bao gồm các nước Thụy Sĩ, Na-uy, Ai-xơ-len, Lích-ten-xtên), viết tắt FTA Việt Nam - EFTA
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 329

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1078002/tiep-tuc-hoan-thien-the-che-thuong-mai-trong-boi-canh-nen-kinh-te-so--thuc-trang-va-giai-phap-trong-thoi-gian-toi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Xem trực thăng kéo cờ, tiêm kích xé gió trên bầu trời TPHCM
Phiêu du giữa mây mù Đà Lạt
Về với đại ngàn
Chênh vênh Sa Mù

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm