Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Vai trò lực lượng công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân góp phần “xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh”

TCCS - Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) đang chiếm một tỷ lệ lớn trong giai cấp công nhân Việt Nam. Việc tạo môi trường phát triển cho khu vực này cần được tiếp tục nghiên cứu và chỉ ra các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của công nhân lao động, từ đó góp phần xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh là yêu cầu quan trọng.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản18/09/2025

Công nhân vận hành dây chuyền lắp ráp ô tô tại nhà máy của Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco) trong Khu kinh tế mở Chu Lai, thành phố Đà Năng_Ảnh: TTXVN

Nghiên cứu, ban hành và thực thi chính sách nhìn từ góc độ chính sách đối với giai cấp công nhân Việt Nam  hiện nay 

Chính sách thể hiện vai trò chủ động, tự giác trong phát triển và những điều chỉnh hướng tới một lĩnh vực, đối tượng nhất định. Nghiên cứu chính sách “xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh” đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu từ phương diện ban hành và thực thi chính sách như sau:      

Bối cảnh ban hành chính sách: từ khi tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (năm 1996) đến nay, bối cảnh lớn là công cuộc đổi mới, bối cảnh cụ thể là quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sát thực hơn nữa là thị trường lao động, quan hệ lao động, điều kiện lao động... Tất cả yếu tố tạo nên bối cảnh ấy đã phân biệt với giai đoạn trước năm 1996 và trước năm 1986. Trong từng giai đoạn cụ thể, theo sự thay đổi của xu thế phát triển và nhận thức, yếu tố bối cảnh có thể thêm nhiều chi tiết mới; chẳng hạn “gắn với toàn cầu hóa, hướng tới kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường”.

Hiện nay, “bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” là yếu tố quan trọng. Đặc điểm của nó là sản xuất và dịch vụ dựa trên các thành tựu mới về khoa học và công nghệ, năng suất lao động rất cao, sử dụng lao động trình độ cao, ít thâm dụng lao động, diễn ra rất nhanh và quyết liệt khiến cho mọi nền kinh tế buộc phải thay đổi theo hướng “đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu”. Chính sách với giai cấp công nhân phải tính tới và đáp ứng yêu cầu đó. Dĩ nhiên, cùng với sự đáp ứng chuyển đổi, có cả sự điều chỉnh chính sách đã không còn phù hợp với bối cảnh mới.    

Chủ thể tham gia vào quá trình ban hành chính sách là các cơ quan quản lý nhà nước với các cấp độ quyền lực khác nhau, như Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp và một số tổ chức khác (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...). Sự tham gia của nhiều chủ thể trong quá trình ban hành chính sách vừa có tác dụng tích cực, vừa đặt ra một số vấn đề về phương diện quản lý, như phân định đối tượng tác động của chính sách, xác định độ khu biệt của chính sách... 

Tiếng nói tham mưu chính sách của Công đoàn - tổ chức đại diện cho quyền lợi của công nhân lao động rất quan trọng, nhưng làm thế nào để điều này đi vào từng chính sách cụ thể lại là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.     

Đối tượng thụ hưởng chính sách phần nào chưa được định hình thống nhất trong văn bản quản lý khi đối tượng thụ hưởng là “công nhân lao động”, “người lao động”, “người lao động tại khu công nghiệp”, thậm chí có cả sự mặc định theo diện rộng “công nhân lao động trong các thành phần kinh tế”... Ít có chính sách chỉ rõ đối tượng đặc thù kiểu như “chế độ dành cho lao động nữ mang thai, nuôi con dưới 12 tháng tuổi”... Sự khu biệt về đối tượng thụ hưởng chính sách, từ đó góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn công bằng xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm.  

Lĩnh vực điều chỉnh: trên thực tế đã có nhiều chính sách chỉ ra cụ thể lĩnh vực điều chỉnh, chẳng hạn: “về lao động và việc làm”; “nhà ở và phúc lợi xã hội cho các khu công nghiệp”; hoặc “chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức ngành y tế”... Tuy vậy, chỉ có ít chính sách (về lao động, lương trong doanh nghiệp khu vực tư nhân, tổ chức và điều kiện thành lập công đoàn trong khu vực tư nhân) chỉ rõ và phân định lĩnh vực điều chỉnh ở thành phần KTTN.       

Chủ thể tham gia quá trình thực hiện chính sách, tuy được chỉ ra trong các văn bản chính sách về trách nhiệm, nghĩa vụ chấp hành chính sách của doanh nghiệp, nhưng dường như vẫn chưa định hình về đối tượng, về biện pháp xử lý vi phạm. 

Nhìn từ góc độ thực hiện chính sách, khu vực KTTN hiện đang giải quyết việc làm cho khoảng 12,7 triệu công nhân và đang được kỳ vọng tăng số lượng từ 940.000 doanh nghiệp hiện nay lên tới 2 triệu doanh nghiệp, có cả đề xuất 4 triệu doanh nghiệp trong thời gian tới(1). Nhìn chung, khu vực này đang cần được hỗ trợ về chính sách. Cả chính sách cởi trói, thúc đẩy phát triển và chính sách hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích của công nhân lao động khi đời sống gặp khó khăn. Phát triển KTTN không thể không đề cập đến những vấn đề thuộc về chính sách để phát triển giai cấp công nhân ở khu vực này. 

Việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đang gặp một số thách thức giữa yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường, nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa được sử dụng khá phổ biến, đưa đến một hiện tượng phát sinh trong thực tiễn là một bộ phận công nhân chịu tác động mạnh mẽ của thị trường hàng hóa sức lao động, quy luật bóc lột giá trị thặng dư, đời sống việc làm gặp khó khăn. Với chủ trương phát triển KTTN, vấn đề làm chủ, làm thuê của công nhân lao động hiện nay là thực tế đang diễn ra hằng ngày. Vậy làm thế nào vừa phát triển nền kinh tế thị trường, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thị trường lao động, quan hệ lao động chịu tác động không nhỏ từ biến động liên tục của tình hình khu vực và quốc tế; làm thế nào để vừa xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vừa từng bước xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh? 

Tóm lại, chính sách với công nhân trong doanh nghiệp khu vực tư nhân, thành phần KTTN đang nổi rõ là lĩnh vực có nhiều điểm cần hoàn thiện theo hướng khu biệt, vì nhóm lao động này có khá nhiều đặc thù.

Công nhân kiểm tra thép xây dựng thành phẩm trước khi đưa ra thị trường tại Khu liên hợp sản xuất gang thép Hoà Phát Dung Quất (Tập đoàn Hòa Phát)_Ảnh: TTXVN

Hoàn thiện chính sách với kinh tế tư nhân và công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân là nhu cầu thực tiễn để góp phần xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh  

Phát triển KTTN trở thành một “nguồn lực nội sinh quan trọng”, “một trong những cột trụ quan trọng” của nền kinh tế nước ta giai đoạn vươn mình của dân tộc... đang dần trở thành quyết sách đột phá ở nước ta. Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh cũng phải gắn liền và tập trung vào hoàn thiện chính sách ở lĩnh vực này. 

Trên thế giới, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, kể từ Đại hội XVIII (năm 2012), Đảng Cộng sản Trung Quốc chú trọng phát triển KTTN theo định hướng: “Quốc thoái, dân tiến” (giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước, tăng doanh nghiệp tư nhân). Quan điểm là: “Kinh tế nhà nước và tư nhân đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; Kiên trì hai “không dao động” là: “không dao động củng cố và phát triển chế độ kinh tế nhà nước” và “không dao động khuyến khích, ủng hộ và định hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân””. Kết quả là, đến cuối năm 2017, số lượng doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc đã vượt 27 triệu, số hộ kinh doanh cá thể vượt trên 65 triệu, với số vốn đăng ký vượt trên 165 nghìn tỷ nhân dân tệ, khu vực KTTN đóng góp hơn 50% thuế, hơn 60% GDP, hơn 70% thành quả đổi mới công nghệ, hơn 80% việc làm đô thị và hơn 90% số lượng doanh nghiệp. Trong 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới, số doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc tăng từ 1 doanh nghiệp năm 2010 lên 28 doanh nghiệp năm 2018.

Có mấy vấn đề cần được quan tâm về chính sách: 

Thứ nhất, bước đi, giải pháp, chính sách gì cần thực hiện để phát triển KTTN ở nước ta?

Vai trò quan trọng của KTTN đã được thực tiễn đổi mới khẳng định. Khu vực KTTN đóng góp rất quan trọng tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. Giai đoạn 2017 - 2024, khu vực KTTN sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế. Tỷ trọng vốn đầu tư của KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu(2). Điều cần ghi nhận là KTTN đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. Phát triển KTTN “trở thành đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” là tư duy mới mẻ cần được khuyến khích. 

Tuy vậy, hiện nay hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chồng chéo; môi trường kinh doanh nhiều trở ngại, thủ tục hành chính còn tốn nhiều thời gian, chi phí và tiềm ẩn phức tạp. “Các doanh nghiệp khu vực tư nhân còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành công nghệ, kỹ thuật và tài chính”(3)

Phát triển nhân lực trong khu vực KTTN cũng đang đối mặt với một số thách thức. Một câu hỏi đặt ra, vì sao doanh nghiệp khu vực tư nhân vẫn tổ chức ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ? Khả năng phát triển của doanh nghiệp khu vực tư nhân như thế nào, khi sức cạnh tranh, năng lực quản trị, nhất là năng suất lao động của nhiều doanh nghiệp khu vực tư nhân vẫn thấp hơn doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước? Làm thế nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với doanh nghiệp khu vực tư nhân? Bài toán đặt ra hiện nay là giải quyết hài hòa giữa sự đóng góp công sức của lực lượng công nhân lao động - lực lượng lớn nhất của đất nước hiện nay đang lao động trong khu vực KTTN với việc thụ hưởng phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, trong khi phần lớn lực lượng công nhân lao động chưa được đào tạo bài bản, từ đó tìm giải pháp, phương thức phát triển giai cấp công nhân Việt Nam.

Để phát triển KTTN, cần có hệ thống chính sách toàn diện, đột phá, tạo động lực giải phóng mạnh mẽ năng suất lao động.  

Thứ hai, bước đi, giải pháp, chính sách gì cần thực hiện để phát triển lực lượng công nhân lao động trong doanh nghiệp khu vực tư nhân nước ta? 

Xét dưới góc độ một nhà nước kiến tạo phát triển, hai chức năng kinh tế quan trọng nhất là tạo lập thể chế kinh tế thị trường và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp cả về quản lý và lực lượng lao động. Cả hai chức năng này đều liên hệ trực tiếp với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước. 

Hiện nay, khu vực KTTN thu hút khoảng 40 triệu người lao động, trong số đó có 12,7 triệu công nhân. Xét theo tỷ lệ với toàn thể giai cấp công nhân, khu vực KTTN đang có ¾ số công nhân Việt Nam làm việc và đóng góp khoảng 50% GDP. 

Các nghiên cứu gần đây(4) chỉ ra rằng, mối quan tâm của người công nhân về đời sống tập trung chủ yếu ở việc làm ổn định, thu nhập đủ sống, có tích lũy, được hỗ trợ về hạ tầng xã hội, an sinh xã hội...

Trên thực tế nghiên cứu và thực hiện chính sách cho nhóm công nhân lao động này, hiện nay có mấy vấn đề cần quan tâm

Việc làm và điều kiện làm việc của công nhân trong khu vực KTTN còn nhiều bất cập so với nhu cầu tự thân và yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tại một số doanh nghiệp khu vực tư nhân, nhiều vấn đề đặt ra về phương diện chính sách cần được quan tâm nghiên cứu, như điều kiện làm việc của công nhân, an sinh xã hội, hoạt động của công đoàn, chính sách đặc thù đối với quan hệ lao động...(5).  

Khoảng cách về trình độ văn hóa, tay nghề của công nhân trong khu vực tư nhân nước ta với yêu cầu “xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh” trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là vấn đề cần quan tâm. 

Theo đó, đào tạo và đào tạo lại lao động công nghiệp nước ta nói chung và công nhân trong khu vực KTTN đang cần đến một chiến lược vĩ mô với mô hình chính sách là: “Nhà nước hỗ trợ đổi mới công nghệ sản xuất và đổi mới giáo dục - đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” còn “thị trường lao động thì sử dụng và hoàn trả chi phí đào tạo lao động”. Trong đó, Nhà nước tiên liệu nhu cầu nhân lực, xác định chiến lược tổng thể; thị trường xác định nhu cầu về số lượng - chất lượng nhân lực; người lao động tự giác, chủ động lựa chọn nghề theo sở thích; cơ sở đào tạo ký hợp đồng liên kết, phối hợp đào tạo với doanh nghiệp, người sử dụng nhân lực bảo đảm “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, tuân thủ yêu cầu của pháp luật về sử dụng lao động... Tất cả quan hệ này được điều tiết bằng cả nhu cầu của thị trường lao động và cơ chế Nhà nước kiểm tra, điều tiết, hỗ trợ quá trình sử dụng lao động thông qua các luật về hoạt động lao động và hệ thống an sinh xã hội./. 

----------------------

(1) Viễn Thông: “Chuyên gia: Doanh nghiệp tư nhân cần được giao những dự án lớn”, Báo điện tử VN Express, ngày 20-3-2025, https://vnexpress.net/ chuyen-gia-doanh-nghiep-tu-nhan-can-duoc-giaonhung-du-an-lon-4863709.html
(2) Xem: Tổng thuật: Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, Báo điện tử Chính phủ, ngày 21-05-2025. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-trien-khai-nghi-quyet-66-va-nghi-quyet-68-cua-bo-chinh-tri-119250517213032536.htm 
(3) GS. TS. Tô Lâm: “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.059 (4-2025), tr. 4
(4) Viện nghiên cứu Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: Báo cáo điều tra thường niên, năm 2024
(5) Xem: Lê Đình Quảng: “Công đoàn tham gia xây dựng chính sách pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tháng 8-2024); Kết luận của Hội thảo khoa học Hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế , tháng 8-2024; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Báo cáo quan hệ lao động 2022, tr. 45

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1135502/vai-tro-luc-luong-cong-nhan-trong-khu-vuc-kinh-te-tu-nhan-gop-phan-%E2%80%9Cxay-dung-giai-cap-cong-nhan-viet-nam-hien-dai%2C-lon-manh%E2%80%9D.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Ngôi làng ở Đà Nẵng lọt top 50 làng đẹp nhất thế giới 2025
Làng nghề lồng đèn lai rai đơn hàng mùa Trung thu, đặt đến đâu, làm đến đó
Chênh vênh đu gành, bám đá cạo rong mứt ở biển Gia Lai
48 giờ săn mây, ngắm lúa, ăn gà ở Y Tý

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm