Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

“Vết Chàm” ở xứ Quảng

Ở xứ Quảng, nhiều tên làng tưởng chừng vô nghĩa trong tiếng Việt lại ẩn chứa lớp ký ức Champa. Những âm tiết ấy như “vết chàm” in dấu trên địa danh, phản chiếu lịch sử giao thoa và tiếp biến văn hóa qua bao thế kỷ

Báo Đà NẵngBáo Đà Nẵng12/10/2025

Núi Cà Tang. Ảnh: Tư liệu
Núi Cà Tang. Ảnh: Tư liệu

Giải mã tên làng Dùi Chiêng

Trên con đường dẫn vào làng Dùi Chiêng (xã Quế Phước, huyện Nông Sơn, Quảng Nam cũ) có một cột kilomet ghi “Dùi Chiên”, thiếu chữ g. Với người Quảng, cách phát âm “chiên” hay “chiêng” vốn không khác biệt, nên chính tả không phải là điều đáng bàn. Điều đáng nói nằm ở cái tên “Dùi Chiêng” vừa lạ, vừa quen, gợi tò mò và mở ra một hành trình truy nguyên văn hóa.

Làng Dùi Chiên hiện diện ở xứ Quảng từ xa xưa đến nay. Không ai biết chính xác làng hình thành từ bao giờ, và cũng chưa từng có ai lý giải vì sao nó mang một cái tên vô cũng đặc biệt như vậy. Tên làng đi vào đi vào câu hát dân gian xứ Quảng: “Tôi đây khách lạ xa đàng/ Tới đây hát đối biết nàng ở Dùi Chiêng/ Mai ngày tôi trở lại Bình Yên/ Thương mấy cô ở lại có chiêng mà không dùi”.

Những câu hát xưa cho thấy địa danh Dùi Chiêng được liên tưởng đến nhạc cụ dân gian quen thuộc của người Việt: chiếc chiêng và cái dùi gõ. Nhưng chính ở sự ngẫu nhiên ấy lại mở ra cả một câu chuyện dài về nguồn gốc và lớp nghĩa văn hóa ẩn sau tên làng.

Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã giải mã hai chữ “Dùi Chiêng” và thật bất ngờ, chúng không hề liên quan đến nhạc cụ quen thuộc như nhiều người lầm tưởng. Thay vào đó, đây là dạng chuyển âm từ Juh cheng trong tiếng Chăm cổ. Trong ngữ nghĩa Chăm, juh có nghĩa là “khoanh tròn”, cheng chỉ vùng đất hay khu vực bao bọc. Ghép lại, Juh cheng dùng để mô tả một không gian cư trú có địa thế hình vòng cung, giống như chiếc vòng hay vành khuyên nằm dưới chân núi.

Sự biến âm từ Juh cheng sang “Dùi Chiêng” cũng phản ánh quy luật Việt hóa địa danh Chăm: người Việt thêm phụ âm đầu “d-” để dễ phát âm, đồng thời kéo dài nguyên âm để thuận với khẩu ngữ địa phương. Nhờ vậy mà địa danh này tồn tại suốt hàng trăm năm, dù nghĩa gốc Chăm đã dần phai nhạt trong trí nhớ cộng đồng.

Thực tế, địa thế của Dùi Chiêng ngày nay đúng như tên gọi xưa là Juh cheng. Ngôi làng nằm dựa lưng núi, phía trước mặt là dòng sông uốn khúc, như một vòng tay khép kín ôm trọn lấy xóm làng. Không ảnh từ vệ tinh cũng cho thấy làng Dùi Chiêng không có hình cái dùi và cái chiêng. Người dân làng này xưa nay làm nông nghiệp, không hề liên quan đến nghề đúc đồng làm chiêng như làng Phước Kiều ở Điện Bàn. Sự đối chiếu ấy càng củng cố thêm giả thuyết về gốc gác Chăm của địa danh này.

Tác giả tại làng Dùi Chiêng.
Tác giả tại làng Dùi Chiêng.

Ngọn núi mang tên từ tiếng Chăm cổ

Không xa Dùi Chiêng là địa danh Cà Tang. Tương tự như trường hợp Dùi Chiêng, chữ “Cà Tang”, người Quảng viết chữ này kèm phụ âm “g”, có lúc lại không có. Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng đã mô tả: “Cà Tang: Núi cao như bức trường thành chạy từ đông nam đến tây bắc, làm ranh giới tự nhiên giữa hai xã Quế Trung và Quế Ninh thuộc phía tây huyện Quế Sơn (nay là huyện Nông Sơn). Cà Tang sát bên bờ hữu ngạn sông Thu Bồn và được hiểu theo tiếng Việt là “bức tường”.

Trong khi đó nhà thơ Tường Linh thì dùng chữ “Cà Tan” và ông có cùng nhận định: “Núi Cà Tan là một chi sơn của dãy Trường Sơn, thế núi giống như bức hậu thành hùng vĩ, vững chãi đứng giăng cao sừng sững suốt từ hướng đông nam đến tây bắc làng Trung Phước cũ, nay thuộc xã Quế Trung, huyện Quế Sơn”.

Tuy nhiên, góc nhìn của giới học thuật thì Cà Tang không phải là từ thuần Việt. Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Ngoãn cho rằng địa danh “Cà Tang” có khả năng xuất phát từ chữ katang trong tiếng Chăm, đó là một từ đa nghĩa. Đặt trong bối cảnh truyền thống định danh núi non ở Quảng Nam - Đà Nẵng, vốn thường dựa vào đặc điểm hình dáng cụ thể (như Hòn Nghê, Mỏ Diều, Cổ Ngựa, Hải Vân, Thạch Lĩnh…), cách giải thích theo katang 1 (tháp bút) hoặc katang 2 (rổ nhỏ) có cơ sở thuyết phục hơn cả.

Nếu hiểu Cà Tang theo nghĩa “rổ nhỏ”, thì đây có thể xem như một phép ẩn dụ hình tượng cho dáng núi tròn trịa mang hình cái rổ là thuyết phục nhất. Nó phản ánh lối tri nhận giàu liên tưởng của người Chăm trong việc đặt tên theo cảnh quan tự nhiên xung quanh.

Địa danh trở thành bảo tàng ký ức văn hóa

Dọc theo hai bờ sông Thu Bồn, từ thượng nguồn xuống đến vùng Mỹ Sơn, Trà Kiệu, tồn tại nhiều địa danh mà trong tiếng Việt tưởng chừng vô nghĩa như Tý Sé, Trươm, Kẽm, Răm, Ri, Liêu, Phường Rạnh, Đà La, Cấm La… Tuy nhiên, khi đặt chúng trong ngữ cảnh ngôn ngữ Chăm, mỗi địa danh lại mở ra những lớp nghĩa riêng biệt, phản ánh dấu ấn văn hóa và cách tri nhận đặc thù của cư dân bản địa.

Trường hợp điển hình là làng Sé, tọa lạc bên tả ngạn sông Thu Bồn thuộc xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn. Trong tiếng Việt hiện đại, “sé” hầu như không gợi được bất kỳ ý nghĩa nào, song trong tiếng Chăm, từ này lại giàu khả năng biểu đạt. Nó có thể mang nghĩa địa danh chỉ nơi cư trú, cũng có thể là thủy danh gắn với yếu tố nước như khe Sé, bến Sé. Một cách lý giải khác xuất phát từ chheh/sseh trong tiếng Chăm, có nghĩa là “xinh đẹp”.

Như vậy, địa danh Sé không chỉ là một ký hiệu địa lý, mà còn là một minh chứng ngôn ngữ phản ánh cách người Chăm xưa cảm thụ và đặt tên cho cảnh quan. Qua đó, ta nhận ra rằng việc định danh không đơn thuần nhằm mục đích nhận diện không gian, mà còn thể hiện một tri nhận thẩm mỹ về vùng đất sơn thủy hữu tình bên dòng Thu Bồn thuở trước.

Có thể nói, những ví dụ nêu trên mới chỉ dừng lại ở trực giác dân gian, sự quan sát hình thể tự nhiên để đối chiếu một số tư liệu ít ỏi về ngôn ngữ Chăm cổ. Để hiểu rõ giá trị của chúng, cần đặt địa danh trong cách tiếp cận ngôn ngữ và văn hóa, coi đó như một “bảo tàng ký ức” lưu giữ vết tích của quá khứ. Những âm tiết tưởng chừng vô nghĩa trong tiếng Việt thực ra mở ra cả một hệ thống dấu ấn Champa, qua đó ta đọc được lịch sử giao thoa của những cộng đồng từng sinh tụ trên vùng đất này.

Tiếng vọng Chăm trong ngôn ngữ xứ Quảng

Trong tiến trình tiếp biến, việc người Việt chuyển âm và Việt hóa địa danh Chăm không xóa bỏ gốc gác, mà nhiều khi còn giúp chúng tồn tại lâu dài. Nhờ sự chuyển hóa ấy, nhiều tên đất, tên làng đã thoát khỏi nguy cơ mai một cùng với quá trình suy giảm vai trò của tiếng Chăm ở Quảng Nam. Chính vì vậy mà hôm nay ta vẫn còn có thể nhận diện những manh mối để lần tìm: một Dùi Chiêng tưởng gắn với nhạc cụ nhưng thực chất xuất phát từ Juh cheng; một Cà Tang đa nghĩa; hay một Sé, một Liêu, những âm tiết tưởng vô nghĩa nhưng lại chứa đựng tri nhận thẩm mỹ và ký ức cộng đồng.

Tên đất, tên làng ở xứ Quảng có thể ví như những “vết Chàm” in trên thân thể lịch sử Champa: vừa rõ nét vừa mờ ảo, vừa hiện diện trong ngôn ngữ hằng ngày, vừa như tiếng vọng xa xăm của một nền văn minh đã lùi vào dĩ vãng. Mỗi địa danh không chỉ là ký hiệu địa lý mà còn là chứng tích của sự cộng cư và giao thoa văn hóa, một lát cắt lịch sử quý giá.

Do đó, bảo tồn địa danh gốc Chăm không đơn thuần là giữ lại tên gọi mà còn là gìn giữ di sản văn hóa phi vật thể. Bởi trong những âm tiết nhỏ bé ấy ẩn chứa ký ức tập thể và cách tri nhận của cư dân xưa. Nếu một ngày những địa danh này biến mất hoàn toàn, lịch sử và văn hóa gắn liền với chúng cũng sẽ bị phủ mờ theo năm tháng. Vì vậy, đây không chỉ là mối quan tâm của giới nghiên cứu ngôn ngữ mà cần trở thành một chương trình rộng lớn hơn: khảo cứu, lập danh mục và triển khai các biện pháp bảo tồn hệ thống địa danh gốc Chăm ở xứ Quảng.

Gìn giữ địa danh là giữ lại linh hồn của đất Quảng, một linh hồn được dệt nên từ nhiều lớp ký ức cộng đồng, từ giao thoa và tiếp biến, từ những nhịp cầu văn hóa đã kết nối con người nơi đây qua
nhiều thế kỷ.

Nguồn: https://baodanang.vn/vet-cham-o-xu-quang-3306081.html


Chủ đề: Cà Tangquảng nam

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Về U Minh Hạ trải nghiệm du lịch xanh ở Mười Ngọt và Sông Trẹm
Đội tuyển Việt Nam thăng hạng FIFA sau trận thắng Nepal, Indonesia lâm nguy
71 năm sau ngày giải phóng, Hà Nội vẹn nguyên vẻ đẹp di sản trong dòng chảy hiện đại
71 năm ngày Giải phóng Thủ đô - khơi dậy khí thế để Hà Nội vững bước trong kỷ nguyên mới

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm