Thạc sĩ Ngô Sáu, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk, Bí thư Chi bộ Tổ dân phố 8A, phường Tân Lập (tỉnh Đắk Lắk) cho rằng, chủ đề Đại hội XIV của Đảng được xác định đúng đắn, thể hiện rõ tư tưởng, tầm nhìn, mục tiêu và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong kỷ nguyên mới. Theo ông, chủ đề Đại hội đã thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, sức mạnh về nhân lực, vật lực, tài lực... là sức mạnh chính quyết định để xây dựng đất nước.
Điểm mới nổi bật trong chủ đề là nêu kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì mục tiêu “Hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là sự tiếp nối tinh thần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; đồng thời thể hiện tinh thần kế thừa và phát triển mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới với tầm nhìn và tư duy phát triển mới, có tính hiệu triệu cao, truyền cảm hứng mạnh mẽ.
Chung niềm tin và sự kỳ vọng, bà H’Đa Nê Byă, Bí thư Chi bộ Buôn Đôn, xã biên giới Buôn Đôn (tỉnh Đắk Lắk) nhấn mạnh, niềm tin của nhân dân là sức mạnh to lớn giúp đất nước vượt qua khó khăn, vững bước đi lên. Do đó, trong nhiệm kỳ tới, cần tiếp tục giữ vững kỷ cương, phát huy dân chủ, đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc như tinh thần dự thảo văn kiện Đại hội XIV đã đề ra. Đồng thời, bà kỳ vọng các chủ trương, chính sách của Đảng sớm được cụ thể hóa thành chương trình phát triển vùng.
Về phần mình, Tiến sĩ Nguyễn Đình Hoàng, Trưởng khoa Xây dựng Đảng, Trường Chính trị Tô Hiệu Hải Phòng cho biết, dự thảo Báo cáo chính trị thể hiện tầm nhìn sâu sắc, toàn diện, có tính kế thừa và phát triển những kết quả của nhiệm kỳ trước. Dự thảo xác định rõ công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của đất nước, củng cố niềm tin của nhân dân. Dự thảo cũng nhấn mạnh việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là yếu tố quyết định để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và thống nhất của Đảng trên mọi mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ở nội dung "Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng" tập trung vào một số vấn đề như: đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận; tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức; bảo đảm hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân. Về nội dung này, Tiến sĩ Nguyễn Đình Hoàng đề nghị, dự thảo cần làm rõ thêm những cơ chế để đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong bối cảnh đổi mới, hội nhập, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong 18 vấn đề mới được nêu tại các dự thảo văn kiện, ông Vũ Hồng Thái, nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thái Bình (nay là tỉnh Hưng Yên) tâm đắc nhất quan điểm về chủ trương xây dựng Đảng với nội dung được nêu tại dự thảo Báo cáo chính trị “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh”. Đây là nội dung mới, lần đầu tiên chủ trương xây dựng Đảng văn minh được xác định là một nhiệm vụ chiến lược, thể hiện sự kế thừa tư tưởng lý luận, thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đảng ta là đạo đức, là văn minh" cùng thực tiễn, yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Theo ông Vũ Hồng Thái, thời gian qua, với quyết tâm chính trị cao nhất cùng tinh thần “tự soi, tự sửa, phê bình và tự phê bình”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và quyết liệt, đạt nhiều kết quả quan trọng. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực được ngăn chặn, đẩy lùi; góp phần nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Đặc biệt, cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy theo hướng “hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” được thực hiện quyết liệt, đồng bộ thời gian qua với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” là quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, thể hiện sự đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời tạo động lực, tiền đề vững chắc để Đảng ta tiếp tục xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức, bộ máy và cán bộ ngày càng đạo đức và văn minh.
Nghiên cứu dự thảo văn kiện Đại hội XIV, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Đường, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, tâm đắc nhất nội dung “tiếp tục đổi mới tư duy phát triển” của Đảng. Dự thảo văn kiện đã thể hiện khá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy phát triển trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội mới để đưa đất nước trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Theo ông Trần Ngọc Đường, trong kỷ nguyên mới, vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy phát triển cần được thể hiện thành một quan điểm lớn trong dự thảo văn kiện, bởi đây là vấn đề lớn mang tính lý luận có ý nghĩa chỉ đạo xuyên suốt toàn toàn bộ nội dung của dự thảo Báo cáo chính trị. Đồng thời, cần làm rõ nội hàm, các vấn đề cụ thể của “tiếp tục đổi mới phát triển” như: Từ tư duy quản lý “mệnh lệnh, uy quyền” sang “kiến tạo và phục vụ”; từ tư duy “tập trung” sang “phân cấp, phân quyền” cho địa phương; từ tư duy phát triển kinh tế “thuần túy” sang “bền vững, bao trùm”; từ tư duy đánh giá theo “số lượng” sang đánh giá theo “chất lượng”… Trong dự thảo văn kiện cần xác định rõ hơn tư duy phát triển trong kỷ nguyên mới là tư duy kiến tạo, chủ động, thích ứng và sáng tạo, thay thế cho tư duy hành chính, mệnh lệnh, quyền uy, phụ thuộc và bị động; là yêu cầu xuyên suốt và liên tục, không phải nhiệm vụ nhất thời.
Trong khi đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Hồng Điệp, Phó Trưởng khoa Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng chủ trương “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước; trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng” trong dự thảo Báo cáo chính trị thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn chuyển tiếp sang kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên của kinh tế số, kinh tế xanh và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trước hết, đây là sự kế thừa và phát triển tư duy đổi mới thể chế đã được hình thành qua nhiều kỳ Đại hội. Nếu như các Đại hội trước tập trung vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì dự thảo Báo cáo chính trị lần này mở rộng tầm nhìn, coi thể chế phát triển là một hệ thống tổng thể, liên thông giữa thể chế chính trị - kinh tế - xã hội, bảo đảm sự vận hành hài hòa của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Chủ trương này khẳng định vai trò quyết định của thể chế trong phát triển nhanh và bền vững.
Thực tiễn trong và ngoài nước cho thấy, quốc gia nào có thể chế minh bạch, năng động, có khả năng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh tế thì quốc gia đó có năng suất và năng lực cạnh tranh cao hơn. Việc xác định thể chế chính trị là then chốt thể hiện yêu cầu tăng cường năng lực lãnh đạo, bảo đảm ổn định chính trị - nền tảng của phát triển; còn việc đặt thể chế kinh tế là trọng tâm khẳng định kinh tế là trụ cột tạo nguồn lực vật chất cho sự phát triển. Chủ trương này cũng thể hiện tư duy “phát triển dựa vào thể chế” - coi thể chế không chỉ là công cụ quản lý, mà là động lực phát triển, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng, phù hợp với xu thế quản trị hiện đại và mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Cũng theo PGS.TS Phạm Thị Hồng Điệp, mô hình thể chế mà Việt Nam cần hướng tới trong giai đoạn mới là thể chế kiến tạo - số hóa - xanh - tri thức - phân quyền; trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng và kiến tạo, thị trường làm trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể đổi mới và người dân là trung tâm của phát triển. Đây chính là nền tảng để Việt Nam bứt phá, bắt kịp xu thế của thời đại và vững vàng tiến vào kỷ nguyên phát triển xanh, số và tri thức.
Góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Giáo sư, Tiến sĩ Võ Xuân Vinh (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh) cho rằng, Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về "đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia" được xem là định hướng chiến lược nhằm nâng cao năng suất lao động và tạo động lực tăng trưởng bền vững, dài hạn. Sự kết hợp giữa nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cùng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo không chỉ thúc đẩy tăng trưởng, mà còn giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, từng bước tiệm cận với các nền kinh tế phát triển.
GS.TS Võ Xuân Vinh dẫn chứng, năm 2024, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,09% và trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng 7,52% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng mạnh nhất trong 15 năm qua. Trong đó, kinh tế số đang trở thành động lực quan trọng, chiếm tỷ trọng 18,3% GDP, với tốc độ tăng trưởng hơn 20% mỗi năm, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử cũng là minh chứng rõ nét cho thấy quá trình số hóa nền kinh tế với thị trường đạt trên 25 tỷ USD, chiếm 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng. Cùng với đó, quá trình chuyển đổi số của Việt Nam có những bước tiến rõ nét, thể hiện qua việc nước ta xếp thứ 71/193 quốc gia trên bảng xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc. Theo GS.TS Võ Xuân Vinh, điều này khẳng định những nỗ lực và hiệu quả của Chính phủ trong việc ứng dụng công nghệ vào quản lý và điều hành. Nhờ đó, quy mô thị trường kinh tế số được kỳ vọng sẽ đạt 45 - 50 tỷ USD vào năm 2025 và có thể chạm mốc 90 - 200 tỷ USD vào năm 2030, thể hiện tiềm năng tăng trưởng vượt trội.
Cũng tâm đắc với quan điểm của Đảng khi lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, ông Phương Đình Anh, Phó Chánh Văn phòng điều phối nông thôn mới Trung ương (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khẳng định, điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong kỷ nguyên kinh tế số và hội nhập toàn cầu. Việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn không chỉ giúp đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu mà còn góp phần thúc đẩy phát triển bền vững, nâng cao đời sống nhân dân. Đây là bước chuyển từ tăng trưởng dựa vào “chiều rộng” sang phát triển dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng cao.
Ông Phương Đình Anh khẳng định: “Ứng dụng công nghệ cao giúp nông dân quản lý mùa vụ, giống cây trồng, vật nuôi một cách chính xác, giảm chi phí và tăng thu nhập. Chuyển đổi số trong quản lý, điều hành giúp chính quyền cơ sở minh bạch, nhanh chóng, phục vụ người dân tốt hơn. Đặc biệt, thương mại điện tử và các nền tảng số đã và đang trở thành “cánh cửa” giúp nông sản nông thôn vươn xa, kết nối trực tiếp với thị trường trong và ngoài nước. Có thể nói, khoa học công nghệ và chuyển đổi số chính là chìa khóa để hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn bền vững và nâng cao đời sống người dân - qua đó hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nông thôn mới thông minh, văn minh và giàu đẹp”.
Đại diện Viện Chiến lược, Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bí thư Trần Minh Tân thì góp ý: Đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cần tiếp tục hoàn thiện dự thảo để làm rõ quan điểm chủ đạo là: "Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải hướng tới mục tiêu cuối cùng là phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, trở thành động lực chính phát triển lực lượng sản xuất mới". Trên cơ sở đó, đề nghị Tổ Biên tập dự thảo văn kiện nghiên cứu, rà soát, bổ sung thêm một số nội dung chi tiết và làm rõ hơn vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong việc góp phần tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Thể hiện sự nhất quán về tư tưởng chỉ đạo, tính đồng bộ trong mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp, cơ chế thực thi, cũng như tạo thuận lợi cho việc phổ biến, triển khai và giám sát thực hiện Nghị quyết, chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương sau Đại hội.
Đột phá công nghệ và phát triển bền vững:
Trong dự thảo văn kiện, nhận thức về vai trò văn hóa, mục tiêu xây dựng nền văn hóa thời kỳ đổi mới không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lên một tầm cao mới. Theo đảng viên Vũ Đức Hoàng (xã Bù Đăng, tỉnh Đồng Nai), một trong những điểm mới là văn hóa được xác lập vị trí ngang tầm với kinh tế, chính trị và xã hội. Dự thảo đã thể hiện quan điểm bao trùm, sâu sắc toàn diện mang tính đột phá và là lần đầu tiên Đảng nhấn mạnh khung hệ giá trị có tính hệ thống và đồng bộ khi nêu rõ: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”.
Đảng viên Vũ Đức Hoàng nhấn mạnh, dự thảo đã chỉ ra cần phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa và tinh thần cống hiến của con người Việt Nam, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực và hệ điều tiết phát triển đất nước. Qua đó cho thấy con người vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là người thực hiện vấn đề này.
Còn theo bà Trần Thị Hoàng Mai, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng, dự thảo văn kiện đã thể hiện rõ việc coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh và động lực phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần mở rộng tầm nhìn về “năng lực văn hóa quốc gia”, tức khả năng của từng địa phương, ngành, cộng đồng trong việc sáng tạo, quản trị và lan tỏa các giá trị văn hóa. Việt Nam không chỉ bảo tồn di sản mà cần chủ động sản xuất, sáng tạo và xuất khẩu sản phẩm văn hóa, tham gia sâu hơn vào dòng chảy văn hóa thế giới. Bà Mai đề nghị Trung ương sớm có chiến lược phát triển năng lực văn hóa quốc gia giai đoạn 2025 - 2045, với trọng tâm là chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu di sản, nghệ thuật, nghệ nhân và hình thành các trung tâm sáng tạo văn hóa vùng. Dự thảo cũng cần làm rõ hơn cơ chế chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy công nghiệp văn hóa, xây dựng hệ sinh thái sáng tạo gắn với không gian công cộng, khu đô thị, cảng biển; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất sản phẩm văn hóa - nghệ thuật, thiết kế, trò chơi điện tử, sản phẩm lưu niệm…
Chia sẻ về vấn đề này, ông Văn Công Hùng, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Đồng Tháp cho rằng, để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến phát huy giá trị văn hóa, xây dựng phẩm chất, nhân cách của con người. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách của con người và trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Từ đó, để phát triển toàn diện văn hóa và con người Việt Nam thật sự trở thành đột phá chiến lược, ông Hùng cho rằng văn kiện cần đề cập đến vấn đề tích hợp sâu rộng các hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam vào chương trình giáo dục phổ thông, các hoạt động truyền thông đại chúng, đặc biệt là phong trào ở cơ sở. Văn kiện cần đề cập đến công tác chăm lo đội ngũ tinh hoa văn hóa cũng như phát huy vai trò kiến tạo văn hóa là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ… Để làm được điều này, cần có các chính sách trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, khuyến khích sáng tạo, bảo vệ bản quyền.
Ông Nguyễn Văn Hòa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang thì cho rằng, một vấn đề cần đặc biệt lưu tâm là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc. Do đó, ông đề nghị Đảng, Nhà nước quan tâm hơn nữa tới chính sách đãi ngộ, tôn vinh nghệ nhân, những người đang ngày đêm gìn giữ và truyền dạy các giá trị văn hóa dân tộc; đẩy mạnh giáo dục văn hóa truyền thống trong trường học; khuyến khích hình thành các không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng, giúp di sản được “sống” trong đời sống hôm nay; chú trọng bảo tồn, khai thác và phát huy mạnh mẽ các giá trị di sản văn hóa; ưu tiên nguồn lực đầu tư bảo tồn các làng văn hóa dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch; phục hồi, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý và quảng bá văn hóa. Phát triển văn hóa không chỉ là gìn giữ di sản, mà còn là cách tạo dựng sức mạnh mềm, là nguồn lực tinh thần quan trọng thúc đẩy du lịch và kinh tế địa phương phát triển. Đây cũng là nội dung cần tiếp tục nhấn mạnh và cụ thể hóa trong các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, để văn hóa thật sự trở thành động lực phát triển con người và đất nước trong thời kỳ mới.
Một dấu mốc tư duy mới đang hình thành khi dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng đề xuất đưa “đối ngoại, hội nhập quốc tế” lên ngang hàng với quốc phòng và an ninh. Đây không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật, mà là bước chuyển quan trọng về tầm nhìn chiến lược, phản ánh bản lĩnh chủ động, tự cường của Việt Nam trước trật tự toàn cầu nhiều biến động.
Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Australia, Đại học New South Wales - đánh giá Việt Nam đã trở thành một nhân tố tích cực trong cấu trúc khu vực, với chiến lược đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác và khả năng “tự tin thúc đẩy chủ nghĩa đa phương” trong bối cảnh địa chính trị phức tạp. Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt mang tính quyết định khi từng bước tạo dựng được vai trò và vị thế trên trường quốc tế thông qua việc mở cửa nền kinh tế, gia nhập Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương…
Từ góc độ thực thi, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam Shantanu Chakraborty nói rằng Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong hội nhập quốc tế, hội nhập sâu hơn vào mạng lưới sản xuất của khu vực và toàn cầu. Điều này thể hiện qua hoạt động thương mại sôi động, được thúc đẩy đáng kể bởi sự cải thiện của hoạt động sản xuất công nghiệp hướng đến xuất khẩu. Việc dự thảo văn kiện đặt “đối ngoại, hội nhập quốc tế” ngang hàng với “quốc phòng, an ninh” là một bước ngoặt tư duy: Khi hội nhập trở thành trụ cột, mọi chiến lược - từ khoa học, công nghệ, kinh tế số, chuyển đổi xanh đến văn hóa - đều phải tích hợp đối ngoại ngay từ khâu thiết kế. Mục tiêu không dừng ở vai trò “cứ điểm sản xuất - xuất khẩu”, mà tiến tới định vị Việt Nam như một trung tâm đổi mới, tài chính, công nghệ của khu vực, đóng góp thực chất cho hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
Mặc dù vậy, để chuyển “hội nhập” thành “kiến tạo” và để đặt hội nhập ngang hàng quốc phòng - an ninh như một trụ cột chiến lược, cần đáp ứng một loạt điều kiện tiên quyết. Do đó Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 được xem là một bước hiện thực hóa định hướng của Đảng, trong đó “đối ngoại, hội nhập quốc tế” được xác định là một trong những “chân kiềng” chiến lược mới. Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng thuộc Trường Quản lý kinh doanh Judge tại Đại học Cambridge (Anh) đánh giá Nghị quyết 59-NQ/TW, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. Theo ông, lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận đúng tầm quan trọng của việc định vị hội nhập trong một thế giới mở rộng, ngày càng đa cực và tiềm ẩn nhiều biến động.
Đóng góp ý kiến nhằm thúc đẩy hơn nữa hiệu quả của Nghị quyết, Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Bằng cho rằng trước hết Việt Nam cần tổ chức thực hiện bài bản, chặt chẽ, với những đột phá về nhân sự và tái đào tạo cán bộ. Cùng với đó, Việt Nam cần kiên trì chính sách cân bằng, không chọn phe, duy trì quan hệ tốt với tất cả các nước, giữ hòa bình, ổn định để phát triển. Hội nhập phải thực chất, dựa vào kinh tế và thương mại, trọng tâm là duy trì và nâng cao vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam, vì thế, cần phát triển các ngành mũi nhọn dựa trên công nghệ cao như chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), qua đó tối ưu hóa quan hệ đối ngoại hiện có và tạo lợi thế cạnh tranh ở tầm toàn cầu.
Bước vào kỷ nguyên mới, xác lập hội nhập quốc tế như một trụ cột chiến lược ngang hàng quốc phòng - an ninh là lựa chọn phát triển hợp thời và có tầm nhìn dài hạn: chuyển từ “thụ hưởng” sang “kiến tạo”, từ “đi sau” sang “đồng hành và dẫn dắt” trong các lĩnh vực Việt Nam có lợi thế; qua đó, từng bước định vị vị thế mới của đất nước trên bản đồ toàn cầu.
Dự thảo Báo cáo chính trị đã nhấn mạnh, nêu rõ tầm quan trọng vai trò chủ thể, vị trí trung tâm, quyền làm chủ của nhân dân và khẳng định một trong năm bài học kinh nghiệm quan trọng là: Quán triệt sâu sắc và thực hành triệt để quan điểm “Dân là gốc”. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp và hạnh phúc của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Lấy sự hài lòng, tín nhiệm của người dân, doanh nghiệp và hiệu quả công việc làm tiêu chí đánh giá cán bộ, từ đó, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có cơ chế phù hợp, thuận lợi và tin cậy để nhân dân tham gia ý kiến vào quá trình hoạch định đường lối, chính sách, quyết định những vấn đề lớn và quan trọng của đất nước; nêu cao trách nhiệm tiếp thu, trách nhiệm thông tin, giải trình của các cơ quan Đảng, Nhà nước đối với những kiến nghị, đề xuất của nhân dân.
Về chủ trương này, ông Nguyễn Phi Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng góp ý: “Trong danh mục các nhiệm vụ, đề án quan trọng thực hiện trong nhiệm kỳ tới, dự thảo văn kiện cần bổ sung thêm nội dung: Đẩy mạnh chuyển đổi số công tác giám sát, phản biện xã hội, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về ý kiến, kiến nghị của nhân dân do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì, kết nối với các bộ, ngành, địa phương; đồng thời, bổ sung nhiệm vụ, tổng kết, đánh giá đề xuất sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 nhằm xác định cụ thể thẩm quyền, quy trình, tiêu chuẩn, trách nhiệm giải trình sau giám sát, phản biện xã hội”.
Đồng tình với quan điểm "dân là gốc", nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; lấy hạnh phúc, sự hài lòng của nhân dân làm thước đo và mục tiêu phấn đấu, đảng viên Nguyễn Thị Thu Thanh (giáo viên Trường Trung học cơ sở Dịch Vọng, phường Cầu Giấy, Hà Nội) tin tưởng và mong chờ những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đặt ra trong dự thảo văn kiện sẽ được các đại biểu bàn luận kỹ lưỡng tại Đại hội để sớm trở thành hiện thực”.
Công tác tại địa bàn vùng cao có nhiều khó khăn, ông Nguyễn Ngọc Tân, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Co Mạ (Sơn La) bộc bạch, dự thảo các văn kiện đã thể hiện rõ tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên của dân tộc trong giai đoạn phát triển mới. Từ thực tế vùng cao, việc phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là nhiệm vụ an sinh xã hội, mà còn là động lực chiến lược bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần coi việc thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng là một đột phá chiến lược của giai đoạn 2026 - 2030. Ông Nguyễn Ngọc Tân kiến nghị, thời gian tới, các cấp, ngành cần tiếp tục tăng cường đào tạo nghề, phát triển hợp tác xã, liên kết sản xuất; đặc biệt ưu tiên đầu tư hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống như đường giao thông, xây dựng thêm các trạm viễn thông 4G, 5G tới các bản vùng lõm chưa có sóng điện thoại. Cần có cơ chế linh hoạt hơn trong việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, tạo điều kiện để người dân chủ động, sáng tạo trong phát triển sinh kế.
Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có trên 6 triệu người, sinh sống tại trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có nhiều trí thức, doanh nhân, nhà khoa học, văn nghệ sĩ thành đạt và có uy tín, luôn hướng về quê hương, Tổ quốc. Đây cũng là nguồn lực đặc biệt quý báu, là một thành phần rất quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục được Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quan tâm, tập hợp và phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn mới.
Tiến sĩ Phan Bích Thiện - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Diễn đàn Phụ nữ Việt Nam tại châu Âu, cho rằng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và đối ngoại nhân dân, kiều bào cần được xác định là một nguồn lực chiến lược quan trọng trong hội nhập và phát triển quốc gia. Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị và chuyển dịch quyền lực toàn cầu, đối ngoại nhân dân cần được xác định là một trụ cột chính thức của nền ngoại giao Việt Nam, cùng với đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước.
Tiến sĩ Phan Bích Thiện đề xuất văn kiện nhấn mạnh hơn các định hướng chiến lược sau: Phát huy vai trò cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài như một nguồn lực chiến lược toàn cầu; Coi tri thức và mạng lưới Việt Nam toàn cầu là động lực quan trọng để nâng tầm vị thế quốc gia; Xây dựng hệ sinh thái kết nối kiều bào trong các ngành chiến lược: khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, môi trường, y tế, giáo dục, quốc phòng - an ninh phi truyền thống; Nâng cao hiệu quả bảo hộ công dân, hỗ trợ hòa nhập xã hội và giữ gìn bản sắc Việt Nam cho thế hệ trẻ sinh ra, lớn lên ở nước ngoài. Cần đổi mới phương thức vận động kiều bào, không chỉ hướng về quê hương, đất nước mà theo hướng đồng hành và tạo giá trị chung, là những người đồng kiến tạo tương lai Việt Nam.
Là một trí thức, kiều bào có thời gian sinh sống và làm việc tại Trung Quốc gần 20 năm, Tiến sĩ Phạm Thị Thanh Loan, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Du Lịch và Thương mại Dịch vụ Việt - Việt Quảng Đông cũng kỳ vọng vào một sự kết nối chặt chẽ và bền vững hơn giữa cộng đồng kiều bào với đất nước. Theo bà, việc kiều bào được tham gia một cách thực chất hơn không chỉ vào các dự án kinh tế mà còn vào các diễn đàn đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, các chương trình phát triển giáo dục, văn hóa và xã hội sẽ góp phần lan tỏa tinh thần đồng hành cùng Tổ quốc. Sự phát triển của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, với vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, là niềm tự hào và là động lực để mỗi kiều bào trở thành một đại sứ, quảng bá hình ảnh một Việt Nam năng động, sáng tạo và tràn đầy khát vọng./.
Nguồn: https://dangcongsan.org.vn/xay-dung-dang/khat-vong-vuon-minh-duoi-la-co-ve-vang-cua-dang.html






Bình luận (0)