Ngày 19/11, tại hội thảo “Chuỗi giá trị rơm rạ: Chính sách và cơ hội đầu tư” do Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) và Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) đồng tổ chức, nhóm chuyên gia của IRRI và Đại học Cần Thơ đã công bố kết quả nghiên cứu toàn diện đầu tiên về chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL.
Nghiên cứu được thực hiện tại 14 xã thuộc TP Cần Thơ và hai tỉnh An Giang, Vĩnh Long với mục tiêu lập bản đồ chuỗi giá trị rơm rạ; xác định các tác nhân chính, chức năng, giá trị gia tăng và mối liên kết giữa các bên liên quan; phân tích cơ hội và thách thức và chỉ ra các khoảng trống chính sách, từ đó đề xuất mô hình kinh doanh rơm rạ hiệu quả.
TS Nguyễn Hồng Tín (Đại học Cần Thơ) đại diện nhóm nghiên cứu công bố kết quả nghiên cứu toàn diện đầu tiên về chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
TS Nguyễn Hồng Tín - đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, kết quả nghiên cứu đã xác định được giá trị kinh tế của từng khâu trong chuỗi rơm rạ. Như cuộn rơm gia công hoặc ủ phân rơm có thể mang lại lợi nhuận trung bình 2.500 đồng/cuộn. Nếu thương lái mua - cuộn và bán rơm có thể đạt lợi nhuận 3.600 đồng/cuộn. Trường hợp thương lái mua và bán rơm cuộn sẵn, lợi nhuận tăng lên 4.800 đồng/cuộn.
Đặc biệt, nếu rơm được tận dụng để trồng nấm, trung bình với mỗi cuộn rơm nông dân có thể đạt lợi nhuận khoảng 37.500 đồng, lấy rơm trồng màu lợi nhuận là 34.200 đồng/cuộn và phục vụ chăn nuôi lợi nhuận khoảng 7.700 đồng/cuộn.
TS Tín nhấn mạnh, nếu khai thác hiệu quả 4 hình thức: trồng nấm rơm kết hợp ủ, chăn nuôi và trồng màu, chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL có thể đạt hơn 6.600 tỷ đồng/năm.
Nghiên cứu cũng đã nhận diện được các tác nhân trong chuỗi giá trị rơm rạ gồm: Môi giới, đơn vị cung cấp dịch vụ cuộn rơm, đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển, thương lái và người sử dụng rơm. Trong đó, thương lái giữ vai trò dẫn dắt, vừa làm dịch vụ cuộn rơm vừa thu mua, phân phối và tạo đầu ra nên có biên lợi nhuận cao nhất.
Nghiên cứu chỉ ra, nếu khai thác hiệu quả 4 hình thức: trồng nấm rơm kết hợp ủ, chăn nuôi và trồng màu, chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL có thể đạt hơn 6.600 tỷ đồng/năm. Ảnh: Kim Anh.
Với những kết quả trên, theo nhóm nghiên cứu, chuỗi giá trị rơm rạ đang thiếu khung chính sách rõ ràng và cơ chế hỗ trợ. Khoảng trống lớn nằm ở việc rơm rạ vẫn bị xem là phế phụ phẩm, chưa được công nhận là tài nguyên sinh khối, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia và hạ tầng logistics chuyên dụng.
Bên cạnh đó, hiện nay không có "sàn giao dịch" chính thức cho rơm mà chủ yếu theo kiểu “alo - thỏa thuận”, thiếu cơ chế hóa đơn/thuế và tín dụng ưu đãi. Vấn đề chính sách để giảm đốt rơm vẫn còn thiếu, chưa tích hợp vào cơ chế carbon với quy trình MRV rõ ràng. Mặt khác, hiện nay chuỗi giá trị rơm vẫn chưa có chuẩn an toàn lao động, thiếu thống kê chính thức và bộ chỉ số theo dõi cấp tỉnh.
Từ các kết quả này, các cơ quan chuyên môn dự kiến đề xuất lộ trình hành động: xác lập địa vị pháp lý cho rơm là tài nguyên sinh khối; ban hành TCVN/QCVN; ưu đãi tín dụng; phát triển logistics sinh khối; tích hợp cơ chế carbon với hệ thống MRV; chuyển đổi số và đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ.
Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, mỗi năm ĐBSCL phát sinh khoảng 25 - 28 triệu tấn rơm rạ - một nguồn sinh khối khổng lồ với tiềm năng kinh tế lớn. Tuy nhiên, chỉ 20 - 30% lượng rơm rạ được thu gom, phần còn lại bị đốt tại ruộng, gây ô nhiễm không khí, thoái hóa đất và phát thải khí nhà kính.
Trong bối cảnh vùng ĐBSCL đang đẩy mạnh triển khai Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp và cam kết Net Zero đến năm 2050, ông Thịnh khẳng định, quản lý rơm rạ đã trở thành trụ cột chiến lược của chuyển đổi xanh ngành lúa gạo, không còn là bài toán kỹ thuật riêng lẻ.
Mỗi năm ĐBSCL phát sinh khoảng 25 - 28 triệu tấn rơm rạ. Đây là nguồn sinh khối khổng lồ với tiềm năng kinh tế lớn. Ảnh: Kim Anh.
Ông cho rằng, cần hoàn thiện thể chế, khung pháp lý để công nhận rơm là tài nguyên sinh khối. Đồng thời ban hành tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật cho khâu thu gom, bảo quản, vận chuyển và tái sử dụng, tạo nền tảng phát triển thị trường rơm rạ bền vững.
Việc tổ chức lại chuỗi giá trị với HTX làm trung tâm được đánh giá là cần thiết thông qua phát triển mô hình HTX cung cấp dịch vụ cơ giới hóa thu gom, hình thành điểm tập kết và liên kết với doanh nghiệp sản xuất phân hữu cơ, biochar, viên nén sinh khối… Qua đó đảm bảo nguồn cung ổn định và nâng thu nhập cho nông dân.
Bên cạnh đó, cần huy động các nguồn lực tài chính, tận dụng tín dụng chuỗi, cơ chế hỗ trợ liên kết theo Nghị định 98, các quỹ tín dụng, ODA. Đặc biệt, các cơ quan chuyên môn cần sớm xây dựng hệ thống MRV cho rơm rạ để tích hợp vào cơ chế tín chỉ carbon, tạo động lực kinh tế cho nông dân và doanh nghiệp.
Với sự tham gia của các bên liên quan, hội thảo đã tạo nền tảng đối thoại và cam kết hành động để phát triển chuỗi giá trị rơm rạ bền vững, góp phần vào thành công của Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp.
Nghiên cứu toàn diện về chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL là một trong những hoạt động thuộc Dự án RiceEco do Bộ Nông - Lâm - Ngư nghiệp Campuchia và IRRI cùng các đối tác Việt Nam thực hiện trong giai đoạn 2023 - 2026. Dự án do Quỹ Hợp tác Mê Kông - Hàn Quốc (MKCF) cấp vốn nhằm xây dựng và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ.
Đến nay, các mô hình từ dự án cho kết quả khả quan, việc thu gom rơm giúp giảm đến 3 tấn CO2 tương đương mỗi hecta so với vùi rơm trong ruộng ngập nước. Bã rơm sau trồng nấm, rơm chất lượng thấp, rơm ướt có thể sử dụng sản xuất phân bón hữu cơ ứng dụng cơ giới hóa kết hợp công nghệ sinh học.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/chuoi-gia-tri-rom-ra-tai-dbscl-co-the-dat-hon-6600-ty-dong-nam-d785263.html






Bình luận (0)