Mùa gặt ở Đồng bằng sông Hồng, khói rơm rạ không còn phủ trắng những con đê như vài năm trước. Thay vào đó, các xe thu gom nối đuôi nhau chở rơm đến nhà máy sản xuất phân hữu cơ ở Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Phòng hay tới những trang trại chăn nuôi bò sữa.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, vỏ trấu và bã mía được ép thành viên nén sinh học xuất khẩu sang Nhật Bản. Ở Tây Nguyên, vỏ cà phê được ủ men thành than sinh học (biochar) để cải tạo đất. Hàng chục năm trước, những thứ ấy bị xem là rác thải nông nghiệp nhưng hôm nay chúng đã trở thành nguồn tài nguyên mới của nông nghiệp tuần hoàn.
Người dân phối trộn rơm rạ cùng các loại phân tạo thành phân bón hữu cơ. Ảnh: Bảo Thắng.
Khái niệm tuần hoàn vốn không xa lạ với nông dân Việt Nam. Trong quá khứ, người ta vẫn quen tận dụng phụ phẩm làm chất đốt, thức ăn chăn nuôi hoặc bón lại cho ruộng. Nhưng trong thời đại phát thải thấp, nông nghiệp tuần hoàn đã được nâng lên một tầm mới: một mô hình sản xuất khép kín, không bỏ phí tài nguyên và không tạo thêm gánh nặng cho môi trường.
Điều này càng trở nên cấp bách khi nông nghiệp Việt Nam mỗi năm thải ra hàng trăm triệu tấn phụ phẩm, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Riêng trồng trọt tạo ra khoảng 160 triệu tấn phụ phẩm (rơm rạ, thân ngô, vỏ cà phê, bã mía, vỏ điều, phân gia súc…), tương đương 20% tổng phát thải khí metan của quốc gia.
Những năm gần đây, phụ phẩm, chất thải trong nông nghiệp đã biến thành “vàng” khi được tận dụng làm phân hữu cơ, vật liệu sinh học, nhiên liệu tái tạo và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Tại Ninh Bình, nhiều mô hình thu gom rơm rạ sau thu hoạch do Trung tâm Khuyến nông tỉnh này triển khai đã giúp giảm 80% hiện tượng đốt đồng, mỗi hecta thu về 1,5 - 2 triệu đồng từ bán rơm.
Niềm vui càng nhân lên từ mô hình do Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) phối hợp với Hợp tác xã Sản xuất Kinh doanh và Dịch vụ nông nghiệp Nam Cường (Ninh Bình) thực hiện từ giữa năm 2024. Theo đó, người dân được tập huấn xử lý rơm rạ làm phân hữu cơ theo công thức rơm trộn tỷ lệ 60% với phân bò 30% và đất 10, phun men vi sinh, ủ khoảng 45 ngày với độ ẩm 50 - 60 % và nhiệt độ khoảng 50 - 70 °C.
Kết hợp máy trộn tự hành có công suất 138 - 300 m³/lần, thời gian ủ rút xuống bằng một nửa phương pháp truyền thống. Ủ tốt sẽ đạt tỷ lệ C/N khoảng 13 - 14,5 và pH 6,8 - 7,2, sau đó sản phẩm được ép viên hoặc đóng gói sử dụng trực tiếp trên đồng ruộng.
Những cách tận dụng phế phụ phẩm như vậy xuất hiện ngày một nhiều. Tại Sóc Trăng, mô hình “3 lợi ích” - không đốt rơm, sản xuất phân hữu cơ và trồng rau màu luân canh giúp giảm phát thải hơn 5 tấn CO₂ mỗi hecta. Tại Đắk Lắk, các hợp tác xã cà phê đầu tư dây chuyền ủ vỏ quả và bã cà phê thành phân vi sinh, vừa tiết kiệm chi phí, vừa cải tạo đất. Những chu trình khép kín như vậy đang lan rộng trên khắp vùng trồng trọt, từ đồng bằng đến trung du, từ cây lúa đến cây công nghiệp.
Máy phối trộn rơm rạ do IRRI tài trợ tại Ninh Bình. Ảnh: Bảo Thắng.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, nếu 50% phụ phẩm nông nghiệp được xử lý và tái sử dụng hiệu quả, Việt Nam có thể giảm khoảng 40 triệu tấn CO₂ mỗi năm. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện cam kết Net Zero 2050. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đưa nông nghiệp tuần hoàn vào chiến lược tăng trưởng xanh với mục tiêu đến năm 2030 ít nhất 30% phụ phẩm nông nghiệp được thu gom và tái chế, trong đó 20% dùng làm phân hữu cơ, 10% dùng làm nhiên liệu sinh học.
Trên thực tế, nhiều địa phương đã chứng minh điều đó là khả thi. Ở Đồng Nai, các trang trại bò sữa của Vinamilk và TH True Milk áp dụng mô hình “từ đồng cỏ đến ly sữa”. Cỏ được trồng bằng phân hữu cơ ủ từ chất thải bò, chất thải lỏng được xử lý thành biogas, phần bã còn lại làm phân cho cây trồng. Mô hình này giúp tiết kiệm 25% chi phí đầu vào, đồng thời giảm phát thải metan.
Ở Bắc Ninh, nhiều hợp tác xã đã tận dụng phụ phẩm chăn nuôi kết hợp trồng cây ăn quả, hình thành chuỗi “3F tuần hoàn” (Feed - Farm - Fruit). Ở An Giang và Tây Ninh, chương trình “Không đốt rơm rạ – giữ khí trời trong lành” được người dân hưởng ứng mạnh khi họ nhận thấy đốt rơm vừa lãng phí, vừa gây ngạt bụi cho chính mình.
Quan trọng hơn những con số là sự thay đổi trong tư duy. Nông dân giờ không còn xem phụ phẩm là thứ bỏ đi mà là phần nối dài của vụ mùa. Khi rơm rạ được thu gom để sản xuất phân, người ta nói “cánh đồng sống thêm một vòng”. Khi vỏ cà phê, bã mía trở thành nguyên liệu công nghiệp, người ta nói “đất đã học cách tái sinh”. Trong mỗi quy trình khép kín ấy, không chỉ có kinh tế mà còn là đạo lý của nghề nông - trả lại cho đất những gì mình lấy đi.
Để thúc đẩy quá trình này, các viện nghiên cứu đang phát triển công nghệ ủ nhanh, lên men vi sinh và sản xuất phân bón sinh học từ phụ phẩm. Viện Môi trường Nông nghiệp đang phối hợp với JICA và FAO thử nghiệm quy trình sản xuất than sinh học từ rơm rạ, giúp tăng khả năng giữ ẩm và hấp thu dinh dưỡng của đất. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng khuyến khích hình thành các cụm “trung tâm chế biến phụ phẩm nông nghiệp” ở từng vùng chuyên canh, nơi doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân cùng tham gia. Mục tiêu không chỉ là giảm phát thải mà còn tạo thêm ngành nghề mới, việc làm mới ở nông thôn.
Thách thức vẫn còn, đặc biệt ở khâu thu gom và đầu tư hạ tầng xử lý. Phụ phẩm trồng trọt thường phân tán, khối lượng lớn nhưng giá trị thấp, khó vận chuyển xa. Cần cơ chế khuyến khích tín chỉ carbon, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp chế biến sinh khối và hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. Những thành công ban đầu cho thấy hướng đi này rất khả quan.
Từ ruộng đồng đến nhà máy, từ rơm rạ đến viên nén sinh học, hành trình biến phụ phẩm thành tài nguyên đang viết tiếp câu chuyện bền vững của nông nghiệp Việt Nam. Đó cũng là cách con người thay đổi mối quan hệ với tự nhiên, tôn trọng, tái tạo và cùng tồn tại. Sau 80 năm, ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật không chỉ biết cách làm ra của cải mà còn biết giữ gìn sức khỏe của đất, của cây và của môi trường.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/bien-phu-pham-thanh-tai-nguyen-hanh-trinh-xanh-cua-nong-nghiep-d783356.html






Bình luận (0)