Nội hàm định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Về mục tiêu và phương hướng.
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo, trước tình hình thế giới từ nay đến năm 2030 đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, để xác lập trật tự thế giới mới. Đây cũng là giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm: 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2045. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng xuất hiện khó khăn, thách thức mới, trong đó thách thức nổi trội hơn và có thể xuất hiện giữa biến động khó lường của cục diện thế giới.
Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định rõ: sau gần 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã trải qua kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới (1975 - 2025); và giờ đây, tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc nhằm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh”(1).
Mục tiêu, phương hướng nêu trên thống nhất với quan điểm định hướng của Đại hội XIII của Đảng: “Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(2). Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, việc “xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây sẽ là những dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta, có ý nghĩa định hướng và tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới”(3). Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục khẳng định: “Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”(4).
Đặc trưng phát triển của kỷ nguyên mới.
“Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để kết nối chặt chẽ giữa đẩy mạnh hiện đại hóa nền sản xuất xã hội (vật chất, tinh thần, con người) với phát triển theo hướng tiến bộ xã hội chủ nghĩa (tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc) nhằm tôn vinh, phát triển, phát huy phẩm giá con người và văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, tiến cùng thời đại”(5). Kỷ nguyên mới phải đột phá về tư duy, nhận thức, nhằm tạo đột phá trong huy động, sử dụng tối ưu nguồn lực của đất nước. Do vậy, cần phát huy tối ưu các động lực phát triển đất nước, đặc biệt là tinh thần là chủ, làm chủ, yêu nước, đại đoàn kết và tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của mọi người dân Việt Nam; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở xây dựng Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại.
Một số vấn đề then chốt cần lưu ý trong kỷ nguyên mới.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam được phát triển trên cơ sở những thành tựu tiên tiến, hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là cuộc cách mạng chuyển đổi số. Kỷ nguyên mới cần được tiếp tục làm sáng rõ về nội dung cụ thể về kinh tế, xã hội, văn hóa, đoàn kết dân tộc, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Quan điểm, giải pháp định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Về quan điểm
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030) khẳng định quan điểm phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Cơ sở bảo đảm phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm là yếu tố con người. Chiến lược khẳng định: Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển. Trước đó, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(6).
Trong hoạch định và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền là chủ, làm chủ của nhân dân cần bám sát định hướng đã được Thủ tướng Chính phủ đề cập tại Hội nghị toàn quốc về giáo dục quyền con người: Đưa nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền con người trở thành một yêu cầu và tiêu chí đánh giá bắt buộc trong các hoạt động xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật ở mọi cấp độ.
Về giải pháp
Một là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng: Theo Tổng Bí thư Tô Lâm: “i- Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. ii- Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. iii- Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân trong thực hiện nghị quyết của Đảng. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở đảng, bảo đảm hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. iv- Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực”(7). Thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng; đồng thời, chuẩn bị, củng cố các yếu tố nền tảng, làm tiền đề để nước ta tự tin bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Hai là, phát triển bứt phá về kinh tế - xã hội. Ngày 5-2-2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 25/NQ-CP, “Về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên”, tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030, hướng tới thực hiện thắng lợi mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030(8). Theo đó, phải quyết liệt thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, trên cơ sở tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhờ vậy phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh,...
Ba là, tiếp tục xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, tiết kiệm. Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ quan điểm, “pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(9). Theo đó, cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
1- Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp: “i- Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. ii- Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của nghị định và thông tư. iii- Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. iv- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. v- Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. vi- Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh...) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo”(10).
2- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền trong hoạt động tư pháp. “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(11) và đấu tranh hiệu quả với mọi loại tội phạm, vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội và an ninh quốc gia.
3- Thực hiện chiến lược phòng, chống lãng phí. Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý giải pháp chiến lược những năm tới là: “i- Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”. ii- Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. iii- Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hằng ngày”(12).
4- Xây dựng đội ngũ cán bộ tân tâm, tận lực, tận hiến: i- Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được; ii- Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số; iii- Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí; iv- Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; v- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được cấp ủy, nhất là người đứng đầu có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn(13).
Bốn là, tiếp tục xây dựng thể chế tôn trọng, bảo vệ, thực hiện, thúc đẩy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1- Tăng cường thực thi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(14). Trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các định chế dân chủ đại diện (gián tiếp) và trực tiếp cần được tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhằm thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, trước tiên ở cơ sở cấp xã và cơ quan, doanh nghiệp, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(15) được xác định tại Đại hội XIII của Đảng. Với phương châm và khung khổ pháp lý lớn hơn, toàn diện hơn, trong thời gian tới, cần tăng cường thực thi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, nhất là ở cơ quan, doanh nghiệp.
2- Tăng cường năng lực đáp ứng của chính quyền các cấp và doanh nghiệp trong quá trình phát huy dân chủ trực tiếp nhằm thực hiện dân chủ trực tiếp một cách đồng bộ ở cấp xã và ở cả cơ quan, doanh nghiệp. Hiện nay vẫn tồn tại một hiện tượng là vấn đề cải thiện dân chủ trực tiếp chỉ là chức trách của chính quyền cấp thấp nhất (cấp xã), còn cơ quan, doanh nghiệp hầu như không liên quan trực tiếp. Trên thực tế, một số cơ quan và doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm thích đáng đến thực thi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Đây là điều rất đáng tiếc, vì nhiều lĩnh vực chính sách sẽ thu được lợi ích nếu cơ quan và doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu cơ bản của luật này để có thêm sự tham gia của người dân thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh luật đó. Do vậy, cần thực hiện dân chủ trực tiếp một cách đồng bộ ở cấp xã, và ở cả cơ quan, doanh nghiệp.
Năm là, đẩy mạnh phát triển văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới.
Một trong những điểm cốt lõi của kỷ nguyên mới, theo Tổng Bí thư Tô Lâm chính là hướng tới mục tiêu “mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có cơ hội phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”(16), nhằm bảo đảm phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm. Do vậy cần:
1- Triển khai xây dựng “Chiến lược quốc gia về phát triển con người bền vững trong kỷ nguyên mới” gắn với xây dựng, triển khai “Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” và “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ”.
2- Đẩy mạnh phát triển văn hoá gắn với con người. Trên cơ sở “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(17). Qua đó bảo đảm phát triển văn hóa ngang hàng với các lĩnh vực kinh tế, xã hội và trở thành động lực phát triển xã hội nói chung. Việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị gia đình chính là xây dựng những chuẩn mực phổ quát để định hướng cho thái độ và hành vi của mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng, nhằm góp phần khơi dậy “quyền làm, quyền nói của dân”(18).
3- Điều tiết các yếu tố tác động tiêu cực đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như bạo lực, lệch chuẩn, thờ ơ, vô cảm, suy đồi, biến chất,... và sự tác động không mong muốn trong quá trình phát triển của trí tuệ thông minh, công nghệ số, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, kể cả những yếu tố mới phát sinh qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Vấn đề là làm sao để đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước định hướng để “gạn đục khơi trong” những yếu tố mang tính khách quan và tất yếu này nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
4- Xây dựng, phát triển cá nhân có khả năng hiểu và tương tác hiệu quả trong một thế giới đa dạng và liên kết. Đây không chỉ là người có kiến thức về nhiều nền văn hoá, mà còn là người có kiến thức về các vấn đề toàn cầu, từ chính trị, kinh tế đến văn hoá, môi trường. Đẩy mạnh thực hiện “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”(19); đồng thời, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện”(20). Qua đó góp phần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, theo phương châm: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ” và “phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại”(21)./.
------------
(1) Xem: “Khát vọng vươn mình trong kỷ nguyên mới”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 31-12-2024, https://nvsk.vnanet.vn/tong-bi-thu-to-lam-tra-loi-phong-van-cua-ttxvn-khat-vong-vuon-minh-trong-ky-nguyen-moi-2-160004-1-159931.vna
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 36
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 40
(4) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1050 (tháng 11 năm 2024), tr. 3
(5) Nguyễn Thanh Tuấn: “Khát vọng, lý tưởng, phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 538 (12-2022), tr. 24
(6) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 9 - 10
(7) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 5 - 6
(8) Xem: “Chính phủ ban hành Nghị quyết đặt mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương để đạt 8% trở lên năm 2025”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 5-2-2025, https://baochinhphu.vn/chinh-phu-dat-muc-tieu-tang-truong-cac-nganh-linh-vuc-va-dia-phuong-102250205231258879.htm
(9) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 6
(10) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 6 - 7
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 177
(12) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 9
(13) Xem: Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 10
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 610
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27
(16) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 3
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 143
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 293
(19), (20) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161, 164
(21) Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 71
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1107402/co-so-dinh-vi-muc-tieu-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi%2C-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx
Bình luận (0)