Hoạt động sản xuất của Công ty TNHH New Apparel Far Eastern (Việt Nam), Khu công nghiệp Bắc Đồng Phú (xã Đồng Phú, tỉnh Đồng Nai). Ảnh: HIỀN LƯƠNG |
Đây cũng là mức giảm lớn so với mức 46% trước đàm phán song phương. Trong biểu thuế quan này, các mặt hàng bị đe dọa áp thuế cao bao gồm: cà phê, quần áo, gạo, ca cao và hàng điện tử - những sản phẩm thiết yếu và phổ biến đối với người dân Hoa Kỳ; tuy nhiên, đây không phải là nhóm hàng hóa chủ yếu nước ta xuất khẩu qua Hoa Kỳ.
Những tác động đến nền kinh tế Việt Nam
Việc Hoa Kỳ áp thuế suất 20% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam sẽ có những tác động tiêu cực đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các ngành xuất khẩu chủ lực như: dệt may, da giày, điện tử, thủy sản, đồ gỗ... Các tác động này có thể bao gồm:
Giảm khả năng cạnh tranh: Mức thuế 20% sẽ làm “giá hàng” xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng lên, khiến chúng trở nên kém cạnh tranh hơn so với hàng hóa từ các quốc gia khác.
Giảm kim ngạch xuất khẩu: Khi giá tăng và khả năng cạnh tranh giảm, lượng hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ sụt giảm mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu.
Chuyển dịch chuỗi cung ứng: Các DN Hoa Kỳ có thể tìm kiếm “nguồn cung” thay thế từ các quốc gia không bị áp thuế, dẫn đến sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng, gây thiệt hại lâu dài cho Việt Nam.
Giảm nhu cầu việc làm: Việc sụt giảm sản xuất và xuất khẩu có thể dẫn đến việc cắt giảm nhân sự, gây ra tình trạng thất nghiệp và gánh nặng xã hội.
Mặc dù vậy, cả Chính phủ và DN cần có chính sách ứng phó với mức thuế này. Theo Báo cáo niềm tin kinh doanh 2025 do Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV - tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ) thực hiện trong tháng 6, cho thấy nhiều DN Việt Nam đã và đang lên kế hoạch thích ứng trước thuế quan Hoa Kỳ, trong đó nhóm có hoạt động xuất khẩu ưu tiên tìm “thị trường mới”. Theo đó, niềm tin của DN chỉ giảm nhẹ, không suy giảm quá nhiều là một “điểm sáng” quan trọng đến từ những tác động tích cực của cải cách trong nước, nhất là “bộ tứ trụ cột” các quyết định đột phá về cải thiện môi trường kinh doanh gần đây.
Theo các chuyên gia, năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu tăng trưởng khoảng 12% và đạt khoảng 450 tỷ USD. Nước ta đã ký 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng khoảng 70 cơ chế hợp tác song phương - đây được coi là lợi thế quan trọng giúp các DN Việt mở rộng thị trường, giảm sự phụ thuộc vào một đối tác đơn lẻ (như Hoa Kỳ hay Trung Quốc…). Ngoài ra, thị trường Hoa Kỳ mới chỉ chiếm khoảng 13% tổng nhập khẩu toàn cầu, đồng nghĩa với việc các DN Việt vẫn còn dư địa rất lớn, tương đương 87% thị trường thế giới, để khai thác và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Kết quả khảo sát cho thấy tín hiệu tích cực từ phía DN trong việc ứng phó tác động của chính sách thuế quan Hoa Kỳ. Cụ thể, 29,7% DN lựa chọn “tìm thị trường mới” nhằm giảm sự phụ thuộc vào thị trường này; 20,5% DN dự kiến “tăng cường nội địa hóa chuỗi sản xuất” và 19,6% DN cho biết “tìm các nguồn nguyên liệu đầu vào từ các đối tác thương mại khác Trung Quốc”…
Cần giải pháp ngắn hạn và dài hạn
Trong bối cảnh này, Việt Nam cần có một chiến lược ứng phó toàn diện, bao gồm cả các giải pháp ngắn hạn và dài hạn. Dựa trên phân tích của nhiều chuyên gia, chúng tôi cho rằng chính sách ứng phó của Việt Nam nên tập trung vào các nội dung sau:
Việt Nam cần chủ động đàm phán với Hoa Kỳ để giảm thiểu tác động của chính sách thuế. Các cuộc đàm phán có thể tập trung vào việc làm rõ các vấn đề liên quan đến quy tắc xuất xứ, chống lẩn tránh thuế và các biện pháp phi thuế quan khác.
Việt Nam nên sử dụng các diễn đàn như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để phản ánh các chính sách thuế bất hợp lý, đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ từ các đối tác thương mại khác.
Cùng với đó, chính phủ có thể xem xét các chính sách hỗ trợ như giảm thuế thu nhập DN, giãn thời gian nộp thuế, giảm tiền sử dụng đất, thuê đất; hoặc hoàn thuế VAT nhanh hơn để giảm gánh nặng tài chính cho các DN xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng các chính sách tín dụng ưu đãi, cho vay với lãi suất thấp để giúp DN duy trì sản xuất và chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tìm thị trường mới.
Các ngành chức năng cần hỗ trợ DN tìm kiếm và mở rộng sang các thị trường mới tiềm năng khác như: châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông, các quốc gia ASEAN... Tăng cường xúc tiến thương mại thông qua việc tổ chức các hội chợ, triển lãm quốc tế, kết nối DN Việt Nam với các nhà nhập khẩu tiềm năng. Hỗ trợ DN nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, chuyển từ xuất khẩu “hàng thô” sang hàng “chế biến sâu”, có công nghệ cao hơn.
Cùng với đó là tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Tăng đầu tư vào giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển (R&D) để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Từng bước xây dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo vững mạnh để tăng cường nội lực.
Hoạt động chế biến hạt điều tại Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ Quân Đạt, phường Phước Bình, tỉnh Đồng Nai. Ảnh: XUÂN TÚC |
Tóm lại, trong bối cảnh Hoa Kỳ áp thuế 20%, chính sách ứng phó của Việt Nam cần phải linh hoạt, quyết đoán và toàn diện. Các giải pháp cần kết hợp giữa đàm phán ngoại giao, hỗ trợ trực tiếp cho DN chuyển đổi. Nếu chỉ tập trung vào một khía cạnh, hiệu quả sẽ không cao. Trước mắt, Chính phủ cần có một “gói hỗ trợ khẩn cấp” bao gồm các biện pháp giảm thuế, giãn thuế và hỗ trợ tín dụng đặc biệt cho các DN bị ảnh hưởng trực tiếp. Trong dài hạn, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không chỉ tập trung vào Hoa Kỳ. Đồng thời, cần tập trung vào việc nâng cao giá trị sản phẩm, năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, DN và toàn xã hội.
TS Nguyễn Văn Điển
(Trưởng khoa Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Học viện Chính trị khu vực II)
Nguồn: https://baodongnai.com.vn/tin-moi/202508/day-nhanh-da-dang-hoa-thi-truong-xuat-khau-1b82749/
Bình luận (0)