Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

EVFTA mở ra “cánh cửa thứ hai”: Ngành dệt may giảm rủi ro thị trường

Bộ Công Thương cũng như các bộ, ngành luôn đồng hành với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp dệt may trong bối cảnh Hoa Kỳ áp thuế đối ứng.

Báo Công thươngBáo Công thương19/11/2025

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, thương mại quốc tế ngày càng chịu tác động bởi các chính sách bảo hộ, trong đó chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ là yếu tố đang ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong đó có dệt may.

Ngành dệt may Việt Nam vốn có kim ngạch xuất khẩu hơn 40 tỷ USD/năm, tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động, đang phải đối mặt với yêu cầu cao hơn về xuất xứ, môi trường và chuỗi cung ứng.

Tuy nhiên, trong bức tranh đó vẫn có “điểm sáng” - đó là Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), được ví như “cánh cửa thứ hai” giúp ngành dệt may đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào Hoa Kỳ và tận dụng ưu đãi thuế quan sâu rộng từ EU.

Làm rõ hơn những thách thức của ngành dệt may, cũng như những chính sách đồng hành của Bộ Công Thương với cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh này, Báo Công Thương có cuộc trao đổi với ông Phạm Như Phương - Trưởng Phòng Xuất nhập khẩu ngành hàng, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.

Ông Phạm Như Phương - Trưởng Phòng Xuất nhập khẩu ngành hàng, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.

Ông Phạm Như Phương - Trưởng Phòng Xuất nhập khẩu ngành hàng, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.

EVFTA mang lại nhiều lợi thế thuế quan cho xuất khẩu dệt may

Thưa ông, chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ đã và đang tác động đến hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường này như thế nào?

Ông Phạm Như Phương: Như chúng ta đã biết, từ 7/8/2025, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chính sách thuế đối ứng 20% lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thách thức lớn đối với nhiều ngành nói chung và với ngành dệt may nói riêng.

Theo số liệu thống kê, trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt khoảng 32,9 tỷ USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường này đạt 14,81 tỷ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ.

Kết quả này chủ yếu đến từ các đơn hàng đã được đẩy mạnh ký kết, hợp tác trước thời điểm Hoa Kỳ áp thuế đối ứng. Việc Hoa Kỳ ban hành chính sách thuế đối ứng tác động không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.

Trong bối cảnh nhiều thách thức, Hiệp định EVFTA được xem là “kênh thay thế chiến lược” cho ngành dệt may Việt Nam. Theo ông, đâu là cơ chế cụ thể giúp doanh nghiệp Việt chuyển hướng sang EU hiệu quả hơn? Bộ Công Thương sẽ triển khai những giải pháp gì trong thời gian tới để hỗ trợ doanh nghiệp duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu và tận dụng tối đa EVFTA?

Ông Phạm Như Phương: Hiệp định EVFTA đã mang lại nhiều lợi thế thuế quan cho xuất khẩu dệt may Việt Nam. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định trong EVFTA để gia tăng xuất khẩu sang thị trường EU là động lực để doanh nghiệp gia tăng sản xuất, mở rộng quy mô xuất khẩu; đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia và đầu tư sâu hơn vào chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, từ dệt nhuộm, may mặc cho đến các khâu trung gian; từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng giá trị sản phẩm.

Hiệp định EVFTA đang mở ra một “cánh cửa thứ hai” - giúp ngành dệt may Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

 Hiệp định EVFTA đang mở ra một “cánh cửa thứ hai” - giúp ngành dệt may Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

EU đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam và Hiệp định EVFTA đang mở ra một “cánh cửa thứ hai” - giúp ngành dệt may Việt Nam giảm rủi ro thị trường, đồng thời hướng đến mô hình sản xuất xanh và bền vững hơn theo tiêu chuẩn châu Âu.

Tuy nhiên, để tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan trong Hiệp định, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu phải đầu tư công nghệ, tuân thủ quy tắc xuất xứ từ vải trở đi. Và quy tắc này vẫn đang là một trong những thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam.

Để đáp ứng được tiêu chuẩn này, phải đưa các nội dung của hội nhập kinh tế, của các Hiệp định thương mại tự do vào quá trình đào tạo, giảng dạy để có được nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, giúp ngành công nghiệp dệt may Việt Nam bớt phụ thuộc nguồn vải nhập khẩu.

Về phía Bộ Công Thương, nhiệm vụ đầu tiên là tiếp tục tuyên truyền, tổ chức các hội nghị, hội thảo để các doanh nghiệp, các đối tượng chịu tác động từ chính sách thuế đối ứng, các đối tượng nằm trong chuỗi cung ứng... nắm bắt được các ưu đãi, lợi thế từ EVFTA.

Song song đó, phối hợp với các cơ sở đào tạo đưa vào chương trình giảng dạy về quy tắc xuất xứ, việc áp dụng quy tắc xuất xứ để hưởng thuế ưu đãi từ EVFTA. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng.

Ngoài ra, với mạng lưới hơn 60 thương vụ Việt Nam ở nước ngoài - cánh tay nối dài của Bộ Công Thương, Bộ cũng sẽ chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc tổ chức kết nối thực tế giữa doanh nghiệp Việt Nam với thị trường EU thông qua các hội nghị, hội thảo, chương trình làm việc để kiến tạo cơ hội hợp tác giao thương.

Phát triển bền vững và xây dựng thương hiệu

Bộ Công Thương có định hướng như thế nào trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may thông qua chuỗi cung ứng xanh và số hóa xuất khẩu? Ông có khuyến nghị gì đến doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trong việc tận dụng tối đa ưu đãi từ EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu?

Ông Phạm Như Phương: Trước hết phải khẳng định, Bộ Công Thương cũng như các bộ, ngành luôn đồng hành với doanh nghiệp trong việc kiểm soát nguồn phát thải và thúc đẩy công nghệ xử lý chất thải tái chế và hướng đến mục tiêu là giảm phát khí thải nhà kính cũng như xây dựng ngành công nghiệp môi trường xanh, vững mạnh. Cùng với đó là luôn ưu tiên đối với các chương trình xúc tiến thương mại cho các sản phẩm tuần hoàn và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc, đáp ứng các yêu cầu về minh bạch hóa thông tin, minh bạch về nguyên liệu trong chuỗi cung ứng xuất khẩu.

Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng thường xuyên có các chương trình liên quan để hỗ trợ doanh nghiệp như: Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, chương trình thương hiệu quốc gia... hay các cơ chế chính sách hỗ trợ từ các chương trình như chương trình khuyến công quốc gia, chương trình về công nghiệp hỗ trợ...

Các chương trình này tập trung vào việc xây dựng các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ để giúp cho các doanh nghiệp tự chuyển đổi trong nước, chuyển đổi công nghệ, giảm phát thải trong sản xuất, kinh doanh cùng các vấn đề về tiêu thụ năng lượng, đảm bảo hoạt động cho người lao động, nâng cao chất lượng cho người lao động.

Về khuyến nghị, trước hết, các doanh nghiệp nên đặt hàng đối với các cơ sở đào tạo. Bởi, để tận dụng được ưu đãi EVFTA chúng ta phải hiểu quy tắc xuất xứ là gì. Phải hiểu quy trình sản xuất như thế nào để đáp ứng được ưu tiên về tuần hoàn, về xanh của thị trường EU. Doanh nghiệp là người hiểu rất rõ về những yêu cầu của thị trường nhập khẩu, từ đó sẽ đặt hàng đối với các cơ sở đào tạo.

Qua chương trình giảng dạy, các cơ sở đào tạo sẽ đáp ứng, cung ứng lại nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực hiểu về yêu cầu của thị trường nhập khẩu cho doanh nghiệp. Đây là sự hợp tác win - win giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo.

Thứ hai, từ nguồn nhân lực chất lượng cao, các doanh nghiệp có thể đầu tư vào nghiên cứu phát triển ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, tăng cường tự động hóa, ứng dụng AI, chuyển đổi số trong chuỗi sản xuất, chuỗi quản lý, chuỗi cung ứng từ đó nâng cao năng suất lao động và tối ưu chi phí hóa sản xuất. Các giải pháp này sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thích ứng với chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ.

Thứ ba, các doanh nghiệp cần tập trung vào phát triển bền vững và xây dựng thương hiệu. Đây là hướng đi tất yếu. Nếu như muốn vào thị trường EVFTA, phải nghiên cứu về việc sử dụng các nguyên liệu tái chế, giảm thiểu khí thải trong quá trình sản xuất để tối ưu hóa sử dụng tài nguyên. Ngoài ra cần phải tăng cường tỷ lệ nội địa hóa, đáp ứng quy tắc xuất xứ trong EVFTA.

Xin cảm ơn ông!.

Nhìn lại giai đoạn từ khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/8/2020 đến hết năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều tăng từ 55,4 tỷ USD năm 2020 lên đến 68,3 tỷ USD năm 2024.

Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 40,1 tỷ USD năm 2020 tăng lên 51,6 tỷ USD năm 2024, tăng khoảng 28,6% và thặng dư thương mại giữa Việt Nam với EU tăng từ 24,8 tỷ USD năm 2020 lên 34,9 tỷ USD.

Nguồn: https://congthuong.vn/evfta-mo-ra-canh-cua-thu-hai-nganh-det-may-giam-rui-ro-thi-truong-431195.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Lần thứ 4 thấy núi Bà Đen rõ ràng hiếm gặp từ TP.HCM
Mãn nhãn cảnh đẹp Việt Nam trong MV Mục hạ vô nhân của Soobin
Các quán cà phê decor Giáng sinh sớm khiến doanh thu tăng vọt, thu hút đông đảo giới trẻ
Điều đặc biệt ở hòn đảo sát đường biên giới trên biển với Trung Quốc

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Ngắm trang phục dân tộc của 80 người đẹp thi Hoa hậu Quốc tế 2025 tại Nhật Bản

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm