Sáng 7/10, Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị sơ kết việc thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình "Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030". Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc chủ trì hội nghị.
Hội nghị tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với khoảng 2.400 người tham gia tại 411 điểm cầu cơ sở giáo dục đại học và 6 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục.
Chuyển biến cả về nhận thức, hành động
Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg, ông Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT) cho biết: Trong giai đoạn 2022-2025, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động.
Theo tổng hợp kết quả khảo sát từ 177 cơ sở giáo dục đại học và kết quả sơ bộ đánh giá đối với 5/7 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước, đã có 170/177 cơ sở giáo dục đại học thiết lập đơn vị chuyên trách hoặc bộ phận phụ trách công tác bảo đảm chất lượng, chiếm tỷ lệ 96,3%.
Đây là chỉ tiêu quan trọng trong Quyết định 78/QĐ-TTg. Con số 96,3% cho thấy nỗ lực đáng ghi nhận trong việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) - một trụ cột quan trọng của quản trị hiện đại theo yêu cầu tại Nghị quyết số 71-NQ/TW.
Có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định (1.941 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài); đạt tỷ lệ 52,1% so với 5.007 lượt ngành đại học; 38,4% so với 6.792 ngành trình độ đại học và thạc sĩ).
Kết quả này cho thấy hệ thống đang vượt so với mục tiêu trung hạn theo Quyết định 78 (35% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng, trong đó 10% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế); đồng thời là cơ sở để thực hiện yêu cầu tại Nghị quyết 281/NQ-CP về đẩy mạnh phân tầng, xếp hạng cơ sở giáo dục đại học xét trên bình diện kết quả kiểm định và các tiêu chí chất lượng
Đối với tổ chức kiểm định chất lượng, 100% đơn vị đến hạn đã được Bộ GD&ĐT đánh giá định kỳ theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT; ít nhất 60% tổ chức đã tham gia mạng lưới QA quốc tế hoặc thiết lập hợp tác. Đây là những bước tiến rõ ràng nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng kiểm định theo chuẩn quốc tế, góp phần cụ thể hóa nội dung hội nhập quốc tế về giáo dục đại học nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW.
Về điểm mạnh, theo ông Nguyễn Văn Chương, nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học về vai trò của bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng đã có sự chuyển biến rõ rệt, thể hiện qua việc chủ động thực hiện tự đánh giá, cải tiến quy trình nội bộ và tham gia kiểm định ở nhiều cấp độ.
Hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện và đồng bộ, với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (về: kiểm định viên; giám sát đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; công khai các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; kiểm định chương trình đào tạo; kiểm định cơ sở giáo dục; chuẩn cơ sở giáo dục đại học; chuẩn chương trình đào tạo; các quy định về tuyển sinh, liên kết đào tạo…). Cùng với đó là ban hành các hướng dẫn kỹ thuật, giúp chuẩn hóa hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm định trong toàn hệ thống.
Số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm định viên được nâng cao, thông qua các chương trình đào tạo, chuẩn hóa và nâng chuẩn theo hướng hội nhập quốc tế.

Phân loại cơ sở giáo dục đại học theo mức độ phát triển bảo đảm chất lượng
Về điểm yếu, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong tại nhiều cơ sở giáo dục đại học còn thiếu tính đồng bộ, mới tập trung vào hình thức, chưa vận hành theo chu trình PDCA đầy đủ và chưa gắn kết chặt chẽ với cải tiến chương trình đào tạo, quản trị.
Văn hóa chất lượng chưa được hình thành một cách bền vững tại nhiều cơ sở, do chưa có sự đầu tư chiến lược lâu dài và thiếu sự lan tỏa từ lãnh đạo xuống các cấp thực thi.
Kết quả kiểm định chất lượng, dù đã đạt được, nhưng ở nhiều nơi chưa được khai thác như công cụ quản trị thực chất, mà chỉ dừng ở mức đáp ứng yêu cầu thủ tục hành chính.
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng theo yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 281/NQ-CP và dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi, ông Huỳnh Văn Chương cho rằng, các nhiệm vụ sau đây là điều kiện thiết yếu để hiện thực hóa mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện, với bảo đảm và kiểm định chất lượng là nền tảng cốt lõi của mô hình quản trị đại học hiện đại:
Thứ nhất, đối với cơ quan quản lý nhà nước: Xây dựng cơ chế phân loại các cơ sở giáo dục đại học theo mức độ phát triển về bảo đảm chất lượng dựa trên hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và kết quả kiểm định. Trên cơ sở đó, đề xuất các chính sách hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư có điều kiện và giám sát phù hợp, đảm bảo nguyên tắc phân tầng, phát triển đồng bộ hệ thống.
Nâng cao vai trò điều phối và giám sát hệ thống đảm bảo chất lượng của Cục Quản lý chất lượng. Thành lập Trung tâm phân tích dữ liệu đảm bảo chất lượng quốc gia, kết nối với HEMIS, SAHEP và các hệ thống kiểm định, phục vụ theo dõi chất lượng theo thời gian thực và hỗ trợ ra quyết định chính sách dựa trên dữ liệu.
Rà soát, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật để lồng ghép yêu cầu đảm bảo chất lượng như điều kiện gián tiếp trong mở ngành, đầu tư, phân tầng, xếp hạng và giao quyền tự chủ.
Đề xuất cơ chế đầu tư công có điều kiện, ưu tiên hỗ trợ các trường chưa kiểm định, các tổ chức kiểm định mới, khuyến khích các trường mạnh tham gia kiểm định quốc tế. Thí điểm mô hình kiểm định nhóm ngành, nhằm thúc đẩy chuẩn hóa liên ngành, tiết kiệm chi phí và tăng cường học hỏi lẫn nhau giữa các chương trình đào tạo.
Thứ hai, đối với các cơ sở giáo dục đại học:
Với nhóm các cơ sở giáo dục đại học chưa kiểm định: Thành lập đơn vị chuyên trách đảm bảo chất lượng, xây dựng quy trình tự đánh giá, chuẩn bị hồ sơ minh chứng.
Với nhóm đã kiểm định: Hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong, số hóa quy trình đảm bảo chất lượng, xây dựng dashboard theo dõi chất lượng và minh chứng cải tiến.
Với nhóm có năng lực nổi trội trong hệ thống: Tham gia kiểm định quốc tế, công bố minh bạch dữ liệu đầu ra, và tích cực tham gia xếp hạng học thuật.
Các cơ sở giáo dục đại học cần chuẩn hóa năng lực đội ngũ đảm bảo chất lượng nội bộ thông qua đào tạo, bồi dưỡng định kỳ. Gắn trách nhiệm đảm bảo chất lượng với đánh giá hiệu quả đơn vị và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu. Ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn trong vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ, tăng cường sử dụng dữ liệu trong các quyết định chiến lược và cải tiến học thuật.
Thứ ba, đối với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục: Tái cấu trúc tổ chức theo hướng chuyên nghiệp, tinh gọn, hoạt động hiệu quả, bảo đảm tính độc lập chuyên môn, minh bạch và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Mỗi tổ chức cần có chiến lược trung hạn và dài hạn phát triển năng lực tổ chức, công nghệ và nhân sự. Tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn, bảo đảm tuân thủ các quy định hiện hành và từng bước tiệm cận chuẩn quốc tế. Thiết lập hệ thống quản lý chất lượng nội bộ, công khai quy trình, kết quả và khuyến nghị cải tiến.
Phát triển đội ngũ kiểm định viên chuyên sâu theo lĩnh vực đào tạo, có kỹ năng số, năng lực tư vấn cải tiến và khả năng đánh giá liên văn hóa. Tham gia mạng lưới quốc tế và thiết lập các thỏa thuận công nhận lẫn nhau với tổ chức QA khu vực và toàn cầu.
Đến 2030, trên 50% tổ chức kiểm định trong nước đạt ít nhất một thỏa thuận công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau quốc tế (MRA). Đổi mới phương thức đánh giá ngoài theo hướng sử dụng dữ liệu thực chứng, số hóa quy trình đánh giá và tăng tính khách quan, minh bạch.
Nội dung báo cáo kết quả giai đoạn 2022-2025 thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg được xây dựng trên cơ sở báo cáo của 177 cơ sở giáo dục đại học, 12 trường cao đẳng sư phạm và 7 tổ chức kiểm định chất lượng trong nước giai đoạn 2022-2025.
Số liệu sử dụng tại báo cáo được lấy từ nguồn tổng hợp số liệu của các cơ sở giáo dục và tổ chức kiểm định gửi Bộ GD&ĐT qua Cục Quản lý chất lượng; cơ sở dữ liệu kiểm định viên, danh sách công khai số lượng chương trình đào tạo, cơ sở giáo dục và thông tin về thống kê ngành đào tạo của Bộ GD&ĐT.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/giai-phap-quan-tri-dai-hoc-hien-dai-voi-bao-dam-va-kiem-dinh-chat-luong-post751445.html
Bình luận (0)