Tuy nhiên, phần lớn diện tích chè Trung du búp tím hiện nay vẫn được trồng bằng hạt, khiến cây phân ly mạnh, năng suất và chất lượng không ổn định. Tập quán sản xuất thủ công, thiếu quy trình kỹ thuật chuẩn khiến giá trị của giống chè quý chưa được khai thác đúng mức.
Trước thực trạng đó, từ năm 2021 đến 2025, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã chủ trì thực hiện nhiệm vụ cấp quốc gia: "Sản xuất thử nghiệm và chế biến một số sản phẩm từ nguồn gen chè Trung du búp tím cho vùng miền núi phía Bắc", do TS. Dương Trung Dũng làm chủ nhiệm.
TS. Dương Trung Dũng chủ nhiệm đề tài "Sản xuất thử nghiệm và chế biến một số sản phẩm từ nguồn gen chè Trung du búp tím cho vùng miền núi phía Bắc".
Một trong những kết quả nổi bật của nhiệm vụ là hoàn thiện quy trình nhân giống vô tính để tạo cây giống thuần, khắc phục sự phân ly của giống gieo hạt. Qua nghiên cứu nhiều thời vụ khác nhau, nhóm xác định giai đoạn tháng 9-12 là thích hợp nhất để giâm hom, với tỷ lệ xuất vườn đạt khoảng 90%. Công thức bón phân tối ưu giúp năng suất hom đạt tới 3,42 triệu hom/ha, trong đó tỷ lệ cây giống loại A đạt 65,41%. Việc tạo được nguồn giống chuẩn không chỉ đảm bảo chất lượng đồng đều mà còn là nền tảng quan trọng để mở rộng sản xuất chè dược liệu trong tương lai.
Song song với nhân giống, nhiệm vụ đã hoàn thiện quy trình thâm canh cho giống chè này. Kết quả cho thấy bón 5 tấn phân hữu cơ vi sinh/ha cho năng suất cao nhất tại Phú Thọ (5,45 tấn/ha) và Thái Nguyên (5,23 tấn/ha).
Các thí nghiệm về kỹ thuật hái cũng cho thấy thời vụ tháng 7-8 mang lại năng suất cao nhất, đạt 5,99 tấn/ha, đồng thời cho điểm thử nếm cảm quan tốt nhất (17,92 điểm). Các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp được áp dụng đồng bộ, giúp chè sinh trưởng khỏe, hạn chế sâu hại và phù hợp với điều kiện sinh thái vùng trung du.
Về chế biến, nhóm nghiên cứu thử nghiệm nhiều phương pháp và đã lựa chọn được quy trình tối ưu cho chè dược liệu. Theo đó, diệt men bằng phương pháp hấp - phun hơi nước, kết hợp làm khô bằng sấy lạnh và sao giúp giữ lại hàm lượng polyphenol và hương vị đặc trưng của búp tím. Từ quy trình này, nhóm đã chế biến thành công 1.000 kg chè xanh Trung du búp tím, cùng 100 gói trà túi lọc bổ sung polyphenol và 2 kg bột polyphenol tinh khiết ≥ 85% phục vụ ngành dược phẩm.
Để đánh giá tính khả thi trong sản xuất thực tế, nhiệm vụ đã xây dựng các mô hình trình diễn: 0,5 triệu bầu cây giống, 05 ha trồng mới với tỷ lệ sống đạt 93,44-93,68% và 10 ha thâm canh cho năng suất trung bình 8,07 tấn/ha, tăng 34,95% so với chè đại trà. Quan trọng hơn, hiệu quả kinh tế khi áp dụng quy trình mới tăng tới 76,06%, cho thấy hướng đi dược liệu hóa chè Trung du búp tím hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thị trường.
Giá chè Trung du búp tím theo hướng dược liệu hiện dao động 510.000 - 1.500.000 đồng/kg, cao vượt trội so với chè xanh truyền thống. Điều này mở ra cơ hội lớn để nâng giá trị vùng nguyên liệu, cải thiện thu nhập cho người trồng chè. Bên cạnh đó, dự án đã tổ chức 06 lớp tập huấn với 200 lượt người, giúp nông dân nắm vững kỹ thuật nhân giống, chăm sóc và chế biến chè theo quy trình hiện đại.
Nhiệm vụ không chỉ tạo ra các sản phẩm khoa học mà còn góp phần quan trọng nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị nguồn gen bản địa. Khi được khai thác đúng hướng, chè Trung du búp tím hoàn toàn có thể trở thành sản phẩm chủ lực mới của vùng trung du miền núi phía Bắc, vừa góp phần bảo tồn nguồn gen quý, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Nguồn: https://mst.gov.vn/khai-thac-va-phat-trien-nguon-gen-che-trung-du-bup-tim-197251120004332889.htm






Bình luận (0)