Những mô hình hiệu quả

Những năm gần đây, cùng với các chương trình tập huấn, chuyển giao kỹ thuật của ngành nông nghiệp, nhận thức của người chăn nuôi Nghệ An về an toàn sinh học đã thay đổi rõ rệt. Từ chỗ chăn nuôi nhỏ lẻ, tự phát, nay nhiều hộ đã chủ động áp dụng mô hình khép kín, tận dụng phụ phẩm và vi sinh để xử lý chất thải, tạo nguồn thức ăn tự nhiên.
Tại xã Đông Hiếu, ông Nguyễn Sỹ Khương, hội viên nông dân xóm Xuân Hải, là một trong những người tiên phong nuôi giun quế xử lý chất thải chăn nuôi. Tận dụng phân lợn, gà và thức ăn thừa, ông xây bể nuôi giun ngay cạnh chuồng, vừa khử mùi hôi, vừa tạo thức ăn giàu đạm cho vật nuôi.
“Mỗi tháng tôi tiết kiệm khoảng 500 nghìn đồng tiền cám công nghiệp, gà và lợn lại khỏe mạnh, thịt thơm ngon hơn hẳn”, ông Khương chia sẻ. Giun quế không chỉ giúp làm sạch môi trường mà còn tạo thêm sản phẩm đầu ra, giúp chăn nuôi khép kín, không lãng phí.

Ở xã Kim Liên, ông Trần Hoài Nam lại kết hợp song song hai mô hình nuôi giun quế và sâu canxi. Với 10 con lợn thịt, 200 con gà, ông áp dụng quy trình xử lý phân, rác hữu cơ bằng hai “công nhân sinh học” này.
“Sâu canxi chứa hơn 40% protein, 5% canxi, là nguồn thức ăn bổ dưỡng cho gà, lợn. Chuồng trại gần như không còn mùi hôi, giảm đáng kể công dọn dẹp, phân sâu còn dùng bón rau rất tốt”, ông Nam nói. Nhờ đó, đàn vật nuôi khỏe mạnh, tăng trọng nhanh, chi phí thức ăn giảm, lợi nhuận cao hơn trước khoảng 20%.
Không chỉ tận dụng phụ phẩm, nhiều hộ còn chú trọng xử lý môi trường chuồng trại. Mô hình đệm lót sinh học của ông Nguyễn Văn Minh, xã Vạn An, giúp chuồng gà luôn khô ráo, không còn mùi hôi, giảm công quét dọn. Sau mỗi lứa, lớp đệm được thu hồi làm phân hữu cơ bón cho lúa, rau, tiết kiệm đáng kể chi phí phân bón hóa học.
Trong khi đó, tại phường Tây Hiếu, ông Nguyễn Trọng Hùng lại thành công với mô hình ủ chua phụ phẩm cây trồng làm thức ăn cho dê. Tận dụng cỏ, lá mía, ngô và hướng dẫn của Hội Nông dân, ông lên men phụ phẩm, giúp đàn 100 con dê khỏe mạnh, giảm bệnh đường ruột, tiết kiệm 30-35% chi phí thức ăn. Hiện, 105 hộ trong xóm Phú Tân đã học tập và nhân rộng mô hình.
.jpg)
Không dừng lại ở kỹ thuật sinh học, Nghệ An còn đi đầu trong ứng dụng công nghệ Blockchain vào chăn nuôi an toàn. Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với một số doanh nghiệp triển khai thí điểm mô hình tại xã Đô Lương, áp dụng cho chuỗi chăn nuôi gà. Gà thương phẩm được gắn mã QR riêng, chứa đầy đủ thông tin về con giống, thức ăn, quy trình chăm sóc, tiêm phòng, thời gian xuất bán… Toàn bộ dữ liệu cập nhật tự động lên hệ thống điện tử, giúp người tiêu dùng dễ dàng truy xuất nguồn gốc chỉ qua một thao tác quét mã.
Theo ông Nguyễn Đình Hòa, cán bộ Trung tâm Khuyến nông Nghệ An: “Ứng dụng Blockchain giúp đảm bảo tính minh bạch tuyệt đối, không thể chỉnh sửa dữ liệu, tạo niềm tin cho người tiêu dùng và thuận lợi cho việc xây dựng thương hiệu nông sản sạch Nghệ An”.
Bước đầu, sản phẩm của các hộ tham gia mô hình được tiêu thụ nhanh hơn, giá bán cao hơn từ 10-15% so với sản phẩm chưa gắn mã truy xuất. Từ thành công này, mô hình đang được nhân rộng sang các địa phương khác, hướng tới hình thành mạng lưới chăn nuôi số hóa và truy xuất nguồn gốc toàn tỉnh.
Xu hướng tất yếu trong thời kỳ dịch bệnh

Thực tế cho thấy, dịch tả lợn châu Phi, cúm gia cầm, lở mồm long móng… liên tiếp những năm qua đã khiến ngành chăn nuôi Nghệ An chịu thiệt hại lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn hộ vẫn chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa tuân thủ quy trình an toàn sinh học. Mầm bệnh dễ xâm nhập từ chuồng trại không được vệ sinh, thiếu hố khử trùng, không tách biệt khu nuôi và chưa có dụng cụ, bảo hộ riêng.
Theo ông Hoàng Đình Thuận, Chủ tịch Hội Nông dân xã Văn Hiến: “Chỉ khi bà con nhận thức được tầm quan trọng của an toàn sinh học và chủ động thay đổi tập quán chăn nuôi thì mới kiểm soát được dịch bệnh, nâng chất lượng sản phẩm”. Sau khi dự án “Chăn nuôi thân thiện môi trường” được triển khai, hơn 50% hộ nuôi gà ở xã Văn Hiến đã chuyển sang sử dụng đệm lót sinh học, ủ phân hữu cơ và lên men phụ phẩm. Nhờ vậy, chuồng trại sạch sẽ, mùi hôi gần như không còn, hiệu quả kinh tế tăng từ 15–20%.
Theo các chuyên gia, áp dụng an toàn sinh học không hề khó, chỉ cần tuân thủ “4 có”: Có hàng rào và lưới che khu nuôi; có dụng cụ riêng; có bảo hộ lao động; và có hố khử trùng. Khi những quy tắc ấy được thực hiện nghiêm túc, dịch bệnh được kiểm soát, năng suất ổn định và sản phẩm đạt chuẩn an toàn.

Đặc biệt, khi kết hợp an toàn sinh học với công nghệ số – từ ghi nhật ký điện tử, kiểm soát đầu vào – đầu ra đến truy xuất Blockchain – người chăn nuôi không chỉ phòng dịch tốt hơn mà còn tạo được niềm tin với thị trường, tiến tới xây dựng thương hiệu nông sản sạch. Ông Vương Hồng Thái, Chủ tịch UBND xã Vạn An khẳng định: “Đây là hướng đi tất yếu. Chăn nuôi hiện nay không chỉ cần năng suất mà còn phải an toàn, truy xuất được nguồn gốc và thân thiện với môi trường”.
Thực tế những mô hình nói trên đang mở ra triển vọng lớn cho ngành chăn nuôi Nghệ An. Tuy nhiên, để nhân rộng, cần có sự hỗ trợ đồng bộ về vốn, kỹ thuật, hạ tầng chuồng trại, nhất là với hộ nhỏ lẻ. Các cấp Hội Nông dân, Trung tâm Khuyến nông và chính quyền địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn người dân xây dựng chuỗi chăn nuôi khép kín, ứng dụng Blockchain và nhật ký điện tử để kiểm soát dịch bệnh.

Chăn nuôi an toàn sinh học không chỉ là giải pháp cấp bách trong phòng, chống dịch bệnh mà còn là “chiếc chìa khóa xanh” mở cánh cửa nông nghiệp sạch, hiện đại, bền vững. Khi người nông dân biết “nuôi thông minh”, xử lý chất thải bằng giun, sâu, men vi sinh; lên men thức ăn; dùng đệm lót sinh học; ghi nhật ký điện tử và quản lý bằng công nghệ thì mỗi trang trại, mỗi hộ chăn nuôi sẽ trở thành một tế bào xanh, góp phần kiến tạo nền kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, hiệu quả và bền vững.
Nguồn: https://baonghean.vn/nghe-an-huong-toi-nen-chan-nuoi-an-toan-va-so-hoa-10308431.html
Bình luận (0)