Tiêu chuẩn – công cụ kỹ thuật định hình hành động trong chuyển đổi xanh
Trong bối cảnh toàn cầu đang hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) và thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính theo Thỏa thuận Paris, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ với hàng loạt chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021); cùng cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26 về đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 đã tạo nền tảng cho chuyển đổi xanh trở thành xu thế chủ đạo của phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, các chủ trương lớn, như: Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững giai đoạn 2018–2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 1/8/2018); Chương trình chuyển đổi số quốc gia (Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020); Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021–2039, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 893/QĐ-TTg ngày 26/7/2023)… đều khẳng định rõ vai trò của khoa học, công nghệ và tiêu chuẩn trong quá trình phát triển bền vững.
Trong bối cảnh đó, tiêu chuẩn trở thành công cụ kỹ thuật quan trọng giúp hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hình hành động của doanh nghiệp, cơ quan quản lý và người dân, thúc đẩy tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
Hoạt động tiêu chuẩn hóa được coi là một trong những trụ cột thể chế kỹ thuật, giúp cụ thể hóa các yêu cầu về quản lý môi trường, năng lượng, sản xuất bền vững và tiêu dùng có trách nhiệm. Các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) được xây dựng, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế như ISO, IEC, ITU, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư xanh.
Tiêu chuẩn đóng vai trò định hướng, tạo “ngôn ngữ chung” cho các bên trong chuỗi giá trị xanh. Nhờ đó, các tiêu chí kỹ thuật, chỉ số đo lường và công cụ đánh giá được thiết lập thống nhất, phục vụ quá trình hoạch định chính sách, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ xanh.
Tiêu chuẩn còn thúc đẩy đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu và đầu tư quốc tế.
Đặc biệt, tiêu chuẩn là nền tảng cho các cơ chế chứng nhận, dán nhãn sinh thái, tín chỉ carbon và đánh giá ESG, góp phần hình thành thị trường xanh minh bạch, tin cậy và bền vững.
Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia – nền tảng kỹ thuật của phát triển xanh
Hệ thống TCVN phục vụ tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững hiện bao phủ hơn 10 nhóm lĩnh vực trọng tâm như quản lý môi trường, năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững, kinh tế tuần hoàn, đô thị thông minh, giao thông xanh và nhiên liệu mới. Phần lớn các tiêu chuẩn này được xây dựng hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, giúp Việt Nam hội nhập, đồng thời hỗ trợ thực thi các quy định pháp luật về môi trường, năng lượng và phát triển bền vững.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 14.200 TCVN với tỷ lệ hài hòa quốc tế trên 65%. Trong đó, khoảng 400 tiêu chuẩn liên quan trực tiếp đến chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Đây là công cụ kỹ thuật và cũng là nền tảng thể chế hóa quá trình chuyển đổi xanh, góp phần định hình mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Trong lĩnh vực quản lý môi trường và khí nhà kính, hiện có 30 TCVN về quản lý môi trường, 13 TCVN về khí nhà kính, 29 TCVN về tái sử dụng nước, xử lý, tái chế chất thải, chủ yếu dựa trên các bộ tiêu chuẩn ISO 14000, ISO 14064, ISO 46001. Các tiêu chuẩn này giúp doanh nghiệp kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời tạo cơ sở cho việc hình thành thị trường carbon quốc gia trong tương lai.
Ở lĩnh vực quản lý và sử dụng năng lượng hiệu quả, có hơn 40 TCVN, trong đó 37 tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng cho thiết bị gia dụng, công nghiệp và thương mại được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, giúp định hình khung quản lý năng lượng theo ISO 50001, thúc đẩy đổi mới công nghệ và tiết kiệm năng lượng.
Năng lượng tái tạo là nhóm tiêu chuẩn phát triển nhanh nhất, với 34 TCVN về điện gió, 40 TCVN về điện mặt trời, 18 TCVN về pin lưu trữ và 7 TCVN về pin nhiên liệu, hài hòa với IEC 61400 và IEC 62933. Những tiêu chuẩn này góp phần thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, tiến tới nền kinh tế phát thải thấp.
Trong nông nghiệp và thực phẩm bền vững, Việt Nam đã ban hành 12 TCVN về nông nghiệp hữu cơ, cùng các tiêu chuẩn VietGAP (TCVN 11041, 11892, 13528) và các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc. Hệ thống tiêu chuẩn này hỗ trợ sản xuất nông nghiệp sạch, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Kinh tế tuần hoàn và quản lý tài nguyên là lĩnh vực tiêu chuẩn hóa mới nổi, với các TCVN về tái chế, ghi nhãn, thu hồi và thiết kế bao bì xanh. Các tiêu chuẩn này hỗ trợ giảm rác thải nhựa, tăng tỷ lệ tái chế, hướng tới mô hình sản xuất – tiêu dùng khép kín, thân thiện môi trường.
Đối với đô thị thông minh và bền vững, Bộ KH&CN đã công bố 32 TCVN liên quan, trong đó có nhiều tiêu chuẩn tương đương ISO 37100 – 37125, BSI và ITU. Các tiêu chuẩn như TCVN 37120:2018, TCVN ISO 37122:2020 hay TCVN ISO 37123:2020 giúp đo lường và đánh giá hiệu quả phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn về giao thông xanh (xe điện, pin, thiết bị sạc, an toàn phương tiện) đang được hoàn thiện, góp phần đảm bảo tính tương thích, an toàn và giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông. Đặc biệt, Việt Nam đã lên kế hoạch xây dựng các tiêu chuẩn về hydro và nhiên liệu xanh, dựa trên bộ tiêu chuẩn ISO/TC197 và IEC TC105, phục vụ phát triển năng lượng xanh mới.
Tiêu chuẩn là công cụ kỹ thuật cốt lõi để hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Trong thời gian tới, công tác tiêu chuẩn hóa cần tiếp tục phát huy vai trò cầu nối giữa khoa học – công nghệ, quản lý nhà nước và thực tiễn sản xuất, hướng tới nền kinh tế xanh, phát thải thấp và có khả năng cạnh tranh cao.
Cần ưu tiên phát triển các tiêu chuẩn cho lĩnh vực năng lượng mới, vật liệu tái chế, quản lý carbon và đô thị thông minh, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đào tạo chuyên gia và nâng cao năng lực thử nghiệm – đánh giá sự phù hợp. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng tiêu chuẩn sẽ giúp lan tỏa giá trị của hệ thống TCVN, góp phần nâng cao năng lực sản xuất xanh của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực: Giúp giảm chi phí năng lượng, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng năng lực doanh nghiệp, giảm phát thải và nâng cao nhận thức cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để bao phủ các lĩnh vực mới, đảm bảo đồng bộ giữa tiêu chuẩn hóa, đo lường và đánh giá sự phù hợp.
Với tầm nhìn đến năm 2050, khi Việt Nam hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia sẽ tiếp tục giữ vai trò “xương sống kỹ thuật” của chuyển đổi xanh, là công cụ kết nối giữa chính sách – khoa học – doanh nghiệp, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với thế giới.
Nguồn: https://mst.gov.vn/vai-tro-cua-tieu-chuan-trong-thuc-day-tang-truong-xanh-chuyen-doi-xanh-va-phat-trien-ben-vung-197251026144309763.htm






Bình luận (0)