Sau những thắng lợi to lớn của ta trong hai năm (1973-1974), địch lâm vào tình thế yếu, trong khi lực lượng của ta từng bước lớn mạnh hơn. Trước tình hình đó, bước vào Đông - Xuân 1974-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã thống nhất nhận định đánh giá: Quân địch bị thất bại liên tiếp đã lâm vào tình thế yếu toàn diện, khó có khả năng gượng trở lại và đang trên đà suy yếu rất nhanh.
Khả năng quân Mỹ trực tiếp tăng cường, ứng cứu cho quân đội Sài Gòn sẽ khó xảy ra, viện trợ quân sự đã suy giảm nhiều. Tình hình đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hành động và tinh thần chiến đấu của ngụy quân trên chiến trường, tác động lớn đến phương thức tác chiến và thủ đoạn chiến đấu của chúng.
Bên cạnh đó, do phán đoán sai ý đồ tiến công chiến lược của ta, ngụy quân tổ chức phòng ngự chiến lược theo hình trận dài, chạy dọc theo Đường 1 và Đường 14; tập trung mạnh ở 2 đầu cho Quân khu 1 và Quân khu 3, còn Quân khu 2 ở giữa, gồm các tỉnh vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, chúng chỉ bố trí 2 sư đoàn chủ lực, đó là Sư đoàn 22 ở đồng bằng ven biển, Sư đoàn 23 cùng các liên đoàn biệt động quân ở Tây Nguyên. Trong tổ chức phòng ngự ở Tây Nguyên, địch bố trí lực lượng phòng ngự mạnh ở phía Bắc, cụ thể: Ở Kon Tum, bố trí 4 liên đoàn biệt động quân, 6 tiểu đoàn bảo an; ở Gia Lai, bố trí Sư đoàn 23 (thiếu Trung đoàn 53), 2 liên đoàn biệt động quân, 4 tiểu đoàn pháo binh, 3 thiết đoàn và 15 tiểu đoàn bảo an); còn ở Buôn Ma Thuột là hậu phương chiến dịch của địch, bố trí Trung đoàn 53, 1 tiểu đoàn pháo, 1 thiết đoàn và 9 tiểu đoàn bảo an. Do vậy, ta đi đến nhận định, địch ở Tây Nguyên đã ở vào thế phòng thủ bị động, lực lượng chủ lực tuy còn đông, nhưng bố trí phân tán, khả năng cơ động đã bị hạn chế, khả năng tiếp tế, vận chuyển gặp nhiều khó khăn hơn trước.
Làm chủ Tây Nguyên ta có thể phát triển xuống đồng bằng Khu 5, thực hành chia cắt chiến lược, nhất là có thể phát triển xuống hướng chiến lược rất quan trọng là miền Đông Nam Bộ. Tây Nguyên là chiến trường thích hợp với tác chiến lớn, phù hợp với sở trường chiến đấu của bộ đội ta, tuy xa hậu phương lớn, nhưng nằm trên đường hành lang đã ổn định; qua mấy năm dự trữ vật chất, đạn dược và thiết bị chiến trường, ta đã có khả năng bảo đảm cho chủ lực tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
Quân giải phóng bắn cháy nhiều xe thiết giáp của địch tại chi khu Đức Lập, Đắk Lắk trong Chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh: TTXVN |
Đầu năm 1975, tương quan lực lượng địch - ta trên chiến trường miền Nam có sự thay đổi căn bản, có lợi cho ta và bất lợi cho địch. Đế quốc Mỹ đã rút quân và sẽ khó có khả năng can thiệp trở lại chiến trường miền Nam. Đây là cơ sở để Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm (1975-1976).
Trong đó, năm 1975 tạo tiền đề để năm 1976 tiến tới Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Tuy vậy, vấn đề đặt ra lúc này là phải chọn hướng và mục tiêu mở màn “đòn chiến lược then chốt” ở đâu, để chia cắt, cô lập, tạo đột biến, chuyển hóa thế trận có lợi cho cuộc Tổng tiến công? Nhiều tài liệu nghiên cứu, tổng kết cho thấy, Bộ Tổng Tư lệnh đã không chọn miền Tây Nam Bộ là nơi “mở màn đòn chiến lược then chốt”, bởi vì, nơi đây tuy đông dân, nhưng nhiều kênh rạch, khó triển khai tác chiến hiệp đồng binh chủng; khó chia cắt chiến lược.
Dải đất Nam Vĩ tuyến 17 trải dài miền Trung, địch có hệ thống căn cứ liên hoàn, vững chắc, dày đặc, phát huy hết ưu thế cơ động, hỏa lực, tác chiến liên binh chủng thuận lợi; điều đó, khiến việc đánh điểm huyệt, “vỗ mặt” vào nơi “thủy, lục, không quân, quân trù bị mạnh”, sẽ khó đạt được yêu cầu, khó có thể tạo ra bất ngờ với quân địch. Tại địa bàn Quân khu 3, ở Sài Gòn, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu, quân ngụy có nhiều căn cứ vững chắc, đường giao thông tốt, dễ dàng nhận được sự chi viện từ miền Tây Nam Bộ lên, từ Tây Nguyên xuống, từ Nam Trung Bộ vào, sẽ gây ra nhiều khó khăn cho tác chiến đòn then chốt mở đầu.
Từ những phân tích trên, Tây Nguyên đã được Bộ Tổng Tư lệnh chọn “mở màn đòn chiến lược then chốt”. Chọn mục tiêu chủ yếu cho “mở màn đòn chiến lược then chốt” được Bộ Tổng Tư lệnh phân tích, đánh giá rất kỹ. Trong phân tích, đánh giá lựa chọn, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khi đó) đã nói: Phải điểm huyệt Buôn Ma Thuột. Vì nếu điểm huyệt được Buôn Ma Thuột, toàn bộ Tây Nguyên sẽ rung chuyển, ta có điều kiện thuận lợi phát triển xuống đồng bằng Nam Trung Bộ…
Trong hồi ức “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: “Trong buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu ý kiến: Khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi sơ hở nhất”.
Ở Tây Nguyên, quân địch bố trí hình thành các mục tiêu quan trọng, gồm: Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột và một số mục tiêu khác. Trong đó, ở Kon Tum, qua tác chiến lớn với ta trong năm 1972, đã trở thành mục tiêu cứng, muốn đánh chiếm phải chịu nhiều tổn thất, tiêu thụ lớn, ảnh hưởng đến khả năng phát triển, đồng thời do vị trí địa lý của Kon Tum, ta khó tạo được chuyển biến lớn; ở Pleiku, nếu ta đánh chiếm được, có thể sẽ tạo được chuyển biến lớn, nhưng địch ở đây có lực lượng lớn, bố trí chặt chẽ, đánh không chắc thắng; ở các mục tiêu khác như: Gia Nghĩa, Cẩm Ga, Đức Lập..., tuy địch yếu, ta đánh có khả năng chắc thắng, nhưng tác dụng chuyển biến ít.
Vì vậy, ta chọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu quyết định của chiến dịch, bởi Buôn Ma Thuột là thủ phủ của Tây Nguyên, là trung tâm kinh tế, chính trị ở Tây Nguyên, nằm trên Đường chiến lược 14, án ngữ Đường 21, là nơi có thể phát triển tốt đi các hướng quan trọng; Buôn Ma Thuột là nơi ta chưa từng dùng lực lượng đánh lớn nên địch bố trí sơ hở (chỉ có Trung đoàn 53 (thiếu) và 2 tiểu đoàn bảo an), đồng thời ở đây là hậu cứ của Sư đoàn 23 ngụy quân, ta đánh chiếm được, có thể kéo Sư đoàn 23 và lực lượng khác đến để tiêu diệt lớn, gây tác động dây chuyền, phát triển chiến dịch, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.
Do vậy, đánh Buôn Ma Thuột ta có thể chắc thắng, tiết kiệm lực lượng, bảo đảm cho phát triển giành thắng lợi lớn hơn. Thực tiễn đã chứng minh lựa chọn của ta là hoàn toàn chính xác, góp phần rất quan trọng vào phát triển chiến dịch, chiến lược, giành thắng lợi.
Điểm nổi bật nhất trong nghệ thuật tác chiến ở Chiến dịch Tây Nguyên là tổ chức nghi binh, lừa địch, khiến địch bất ngờ, mất quyền chủ động đối phó. Trong phân tích, đánh giá tình hình, lựa chọn hướng tiến công, mục tiêu chủ yếu, Bộ tư lệnh Chiến dịch cũng đã rút ra: Đánh Buôn Ma Thuột, ta sẽ có khó khăn trong việc trinh sát nắm địch, nắm địa hình, vận chuyển vật chất hậu cần và cơ động tập kết, triển khai lực lượng, hoạt động chuẩn bị phải rất công phu, tuyệt đối giữ bí mật, kết hợp với hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý và đối phó của địch về hướng khác thì mới loại bỏ được khả năng địch tăng cường dự phòng. Do vậy, muốn đánh Buôn Ma Thuột thắng nhanh, phải nghi binh đánh Kon Tum, Pleiku để Buôn Ma Thuột vẫn yếu như cũ. Kế hoạch nghi binh, tạo thế, tạo thời cơ đã được đề ra và tổ chức thực hiện rất chu đáo, chặt chẽ.
Bước vào đầu năm 1975, Sư đoàn 968 đang đứng chân tại Nam Lào đã được lệnh cơ động về Tây Nguyên trước ngày 6-1-1975 nhận nhiệm vụ. Khi Sư đoàn 968 về đến Tây Nguyên đã được giao nhiệm vụ thay cho Sư đoàn 10 (ở Kon Tum) và Sư đoàn 320A (ở Gia Lai) để hai sư đoàn này cơ động về hướng chính làm nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của Sư đoàn 968: Bằng mọi biện pháp thu hút sự tập trung đối phó của địch lên hướng Bắc Tây Nguyên, ghìm chân địch ở hướng này càng lâu càng tốt cho đến ngày hướng chính nổ súng. Trong khi đó, ngày 17-1-1975, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A di chuyển hết lực lượng về Nam Tây Nguyên, mà địch tưởng hai sư đoàn chủ lực này của ta sẽ đánh vào Kon Tum và Pleiku (phía Bắc Tây Nguyên), chứ không đánh xuống phía Nam.
Vì, chúng cho rằng, để đánh được Buôn Ma Thuột, ta phải cơ động khoảng 300km đường rừng, qua nhiều sông suối, nên việc hành quân và đưa phương tiện vào tiến công sẽ rất khó khăn. Ta đã tương kế tựu kế theo nhận định của địch, lên kế hoạch nghi binh, làm cho địch lầm tưởng ta đang chuẩn bị đánh Kon Tum, Gia Lai, nhưng trên thực tế, ta lại điều quân xuống phía Nam Tây Nguyên, chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột. Mặt khác, ta lan truyền thông tin vào trong nhân dân ở những vùng gần căn cứ địch ở Kon Tum và Pleiku, các địa phương thực hiện các biện pháp nghi binh chuẩn bị lực lượng, làm đường, kéo pháo, tải lương, tải đạn... để vào đánh Kon Tum và Pleiku...
Sư đoàn 968 nhận lệnh kéo pháo đánh đồn Thanh An, bắn pháo vào Pleiku; từ ngày 1 đến 3-3, ta đánh mạnh ở Gia Lai, Kon Tum. Các hoạt động đó của ta đã được máy bay do thám của địch trên không, kết hợp với quân thám báo ở mặt đất thăm dò nắm được, nên chúng tin rằng ta đang chuẩn bị đánh Bắc Tây Nguyên. Đối với lực lượng hành quân xuống phía Nam, Bộ tư lệnh Chiến dịch quy định toàn bộ cuộc hành quân phải bảo đảm bí mật, ngụy trang chu đáo, ngày vào rừng, tối hành quân..., đi đến đâu ngụy trang, xóa dấu vết đến đó.
Có thể nói, nghệ thuật nghi binh hoàn hảo đã tạo thế đánh bật địch khỏi Tây Nguyên, giải phóng “nóc nhà của Đông Dương” một cách nhanh chóng. Mất Buôn Ma Thuột, địch hoảng loạn, tan vỡ từng mảng. Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, hơn 28.000 quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tây Nguyên sạch bóng quân thù.
Nghệ thuật chỉ huy và điều hành các trận then chốt là một trong những vấn đề rất quan trọng của nghệ thuật chiến dịch tiến công, là nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch trong nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong Chiến dịch tiến công Tây Nguyên, ta đã tổ chức và điều hành thực hiện thắng lợi 3 trận đánh then chốt. Trong đó, trận đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt mở đầu, có ý nghĩa quyết định nhất, nhằm tiêu diệt mục tiêu chủ yếu (có ý nghĩa chiến lược) của chiến dịch. Do vậy, trong hạ quyết tâm, lập kế hoạch chiến dịch đã tập trung mọi nỗ lực tổ chức chuẩn bị rất chu đáo (trong thời gian khoảng 48 ngày đêm chuẩn bị trực tiếp cho chiến dịch, Bộ tư lệnh và cơ quan chiến dịch đã dành 2/3 thời gian chuẩn bị cho trận đánh Buôn Ma Thuột); khi thực hành chiến dịch, Bộ tư lệnh đã trực tiếp chỉ huy, điều hành, từ việc chỉ huy bộ đội cơ động triển khai, sử dụng hỏa lực chuẩn bị và thực hành đột phá của các cụm đột kích. Do vậy, chỉ trong khoảng 32 giờ thực hành tiến công, trận then chốt mở đầu, quyết định đã giành được thắng lợi rực rỡ, 11 giờ trưa ngày 11-3, cờ của Quân giải phóng đã tung bay trên cột cờ của Sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn.
Thắng lợi của trận then chốt mở đầu đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột đã tạo ra sự bùng nổ, phản ứng dây chuyền dẫn đến trận then thốt thứ 2 tiêu diệt lực lượng của Sư đoàn 23 (thiếu) và Liên đoàn 21 Biệt động quân về phản đột kích, nhằm chiếm lại Buôn Ma Thuột. Đây là trận đánh trong giai đoạn tổ chức chuẩn bị chiến dịch ta mới chỉ dự kiến chuẩn bị những nét chính; nhưng nhờ vào thắng lợi của trận then chốt mở đầu, khi lực lượng của Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn bắt đầu đổ bộ bằng đường không xuống Đường 21 (khu vực Nông Trại, Phước An và Điểm cao 581), Bộ tư lệnh Chiến dịch đã nhanh chóng nắm thời cơ, hạ quyết tâm tiêu diệt chúng ngoài công sự.
Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch phản đột kích bảo vệ vững chắc thị xã Buôn Ma Thuột, Bộ tư lệnh Chiến dịch đã giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Bộ binh 10 (thiếu Trung đoàn Bộ binh 66), được tăng cường Trung đoàn Bộ binh 25, 1 tiểu đoàn xe tăng, được cụm pháo binh và cụm pháo phòng không của chiến dịch trực tiếp chi viện. Mở đầu bằng trận đánh của Trung đoàn Bộ binh 24 cùng với 1 đại đội xe tăng vào sáng ngày 14-3, tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 45 quân đội Sài Gòn ở chân Điểm cao 581; bị ta tiến công bất ngờ, dồn dập, Trung đoàn 45 và Liên đoàn 21 Biệt động quân chạy dồn về Nông Trại, Đông Điểm cao 581.
Ngày 15 và ngày 16-3, địch đổ bộ tiếp Trung đoàn 44 và Sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 xuống Phước An. Sáng ngày 16, Trung đoàn Bộ binh 24 cùng 1 tiểu đoàn của Trung đoàn Bộ binh 66 tiến công vào Nông Trại, tiêu diệt gần hết Trung đoàn 45 địch. Ngày 17, Sư đoàn Bộ binh 10 tiếp tục tiến công cụm quân địch ở Phước An và ngày 18 tiếp tục tiến công tiêu diệt Sở chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 địch tại Chư Cúc.
Như vậy, trong 5 ngày (từ ngày 14 đến 18-3), thực hiện 4 trận đánh bằng cơ động tiến công trên chặng đường dài gần 50km, Sư đoàn Bộ binh 10 đã tiêu diệt Sư đoàn 23 (thiếu) và Liên đoàn 21 Biệt động quân, đập tan ý định phản đột kích của địch, góp phần quan trọng thúc đẩy chiến dịch phát triển nhanh chóng, đưa địch vào thế vô cùng khốn quẫn, buộc chúng phải rút bỏ Tây Nguyên, tạo ra sự phát triển đột biến chiến dịch. Tình hình đó, đã tạo điều kiện cho chiến dịch tổ chức và điều hành đánh thắng trận then chốt thứ 3, truy kích tiêu diệt địch rút chạy.
Trận then chốt thứ 3 là trận đánh diễn ra ngoài dự kiến trong tổ chức chuẩn bị của chiến dịch, thế nhưng khi tình thế xuất hiện, nhận được lệnh truy kích tiêu diệt địch rút chạy, Bộ tư lệnh và cơ quan chiến dịch đã tập trung mọi nỗ lực nhanh chóng hạ quyết tâm và tổ chức thực hiện quyết tâm: Truy kích tiêu diệt tập đoàn địch rút chạy chiến lược trên Đường 7, đoạn tập trung diệt địch chủ yếu từ Cheo Reo đến Củng Sơn; sử dụng Sư đoàn 320, tăng cường Trung đoàn 95B, 1 tiểu đoàn xe tăng và một bộ phận pháo binh của Trung đoàn Pháo binh 675. Trận truy kích diễn ra từ ngày 17 đến 24-3, bằng cách đánh truy kích táo bạo và khẩn trương, ta đã tiêu diệt và đập tan ý định rút chạy của tập đoàn quân địch. Trận truy kích giành thắng lợi có ý nghĩa to lớn về mặt nghệ thuật chiến dịch, tạo bước ngoặt chiến lược của chiến tranh cách mạng, thúc đẩy tiến trình tan rã và suy sụp nhanh chóng của quân ngụy.
Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên có ý nghĩa to lớn về chiến lược quân sự. Chiến dịch đã chọn mục tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuột) vào đúng nơi hiểm nhưng yếu của địch và khiến cho nó “yếu” hơn bằng cách nghi binh điều địch tập trung lên hướng Bắc, đồng thời bí mật cơ động lực lượng lớn về hướng Nam, nhờ vậy ta đã tập trung ưu thế áp đảo ở nơi cần thiết, tạo yếu tố bất ngờ. Chiến dịch đã bố trí thế trận hiểm, cô lập từng cụm quân địch, từ đó buộc chúng phải chấp nhận các tình huống mà ta đã dự kiến, tạo ra đột biến chiến dịch. Nắm thời cơ quân địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, ta đã kịp thời và kiên quyết truy kích tiêu diệt, buộc quân địch ở đây phải nhận thất bại thảm hại chưa từng có, mở ra thời cơ Tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại tá, Ths HOÀNG NGỌC CẨN - Trung tá, CN NGUYỄN THỊ CHUNG
Nguồn: https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/nghe-thuat-quan-su-vn/van-dung-nghe-thuat-quan-su-tai-tinh-dinh-cao-cua-bo-tu-lenh-trong-chien-dich-tay-nguyen-823485
Bình luận (0)