Xu hướng giảm hóa chất, mở rộng sử dụng chế phẩm sinh học
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) giữ vai trò quan trọng trong đảm bảo năng suất và chất lượng cây trồng. Qua từng giai đoạn, thuốc BVTV đã trở thành một trong những giải pháp chủ lực giúp bảo vệ lúa khỏi sâu bệnh, cỏ dại, bảo vệ năng suất và ổn định sản xuất. Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là triển khai thành công các chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), điển hình là các mô hình “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” trên lúa. Các chương trình này đã góp phần ổn định năng suất, giảm chi phí và hạn chế phụ thuộc vào hóa chất.
Theo các chuyên gia, phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học là xu hướng tất yếu phù hợp với yêu cầu của thị trường xanh toàn cầu. Giải pháp này không chỉ giúp giảm thiểu tác động của thuốc hóa học mà còn bảo vệ hệ sinh thái, khai thác lợi thế đa dạng sinh học phong phú của Việt Nam. Việc ưu tiên nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng chế phẩm sinh học là chìa khóa nâng cao giá trị gia tăng cho ngành lúa gạo.
Sử dụng thuốc BVTV sinh học đang trở thành xu hướng tất yếu trong sản xuất lúa gạo tại ĐBSCL.
TS. Lại Tiến Dũng, Viện bảo vệ thực vật thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho biết, đến nay, Viện đã chuyển giao 25 quy trình sản xuất thuốc BVTV sinh học và 27 quy trình ứng dụng trong kiểm soát sâu bệnh. Các sản phẩm tiêu biểu gồm nấm xanh, nấm trắng, chế phẩm phòng trừ virus và nhiều nhóm sản phẩm ứng dụng rộng rãi trong sản xuất. Trong lĩnh vực canh tác lúa, Viện xác định 7 loài nấm ký sinh hiệu quả, nổi bật là nấm xanh và nấm tím phòng trừ rầy nâu. Gần đây, pheromone được thử nghiệm giám sát sâu cuốn lá nhỏ và sâu đục thân đạt hiệu quả khả quan.
Theo TS. Lại Tiến Dũng, dù tiềm năng lớn, biện pháp sinh học vẫn gặp nhiều vướng mắc khi triển khai thực tế. Hệ thống tiêu chuẩn còn thiếu đồng bộ; thủ tục nhập khẩu, xuất khẩu tác nhân sinh học phức tạp; nông dân vẫn còn hoài nghi khi áp dụng trên cây trồng. Thực tế tại Bến Tre (cũ) cho thấy, dù được hỗ trợ chế phẩm Bio-VAAS.1 để xử lý bệnh xì mủ sầu riêng, nhiều hộ vẫn dè dặt. Chỉ khi thử nghiệm trên những cây gần như bỏ đi và thấy hiệu quả thì người dân mới tin tưởng.
Cũng theo TS. Lại Tiến Dũng, điều quan trọng hiện này là tăng đầu tư cho nghiên cứu thuốc BVTV sinh học, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách khuyến khích ứng dụng, đồng thời đẩy mạnh tập huấn, chuyển giao để nâng cao niềm tin và năng lực áp dụng của nông dân. Trong bối cảnh chi phí sản xuất tăng, yêu cầu an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe, biện pháp sinh học được xem là giải pháp bền vững giúp kiểm soát dịch hại an toàn và mở ra hướng phát triển nông nghiệp thân thiện môi trường.
Việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong trồng trọt, kết hợp chế phẩm sinh học hướng tới nông nghiệp bền vững.
Dẫn chứng về số liệu dự báo Liên Hợp Quốc về dân số thế giới có thể đạt 9,8 tỷ người vào năm 2050, kéo theo sức ép lớn về sản lượng nông sản, chất lượng thực phẩm và khả năng tiếp cận của người dân. PGS.TS. Lê Văn Vàng, Trường Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ cho biết, hiện nay an ninh lương thực gồm đủ số lượng, chất lượng và mọi người đều có thể tiếp cận đang đối mặt thách thức lớn khi biến đổi khí hậu và chuỗi cung ứng toàn cầu liên tục đứt gãy. Tác động đặc biệt nghiêm trọng với các quốc gia ven biển và quốc đảo, nơi người dân nghèo thiếu khả năng chống chịu trước thiên tai, hạn mặn hay nắng nóng cực đoan.
Tại ĐBSCL, tư duy phụ thuộc thuốc hóa học vẫn phổ biến. Theo Tổ chức Lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), lượng thuốc BVTV của Việt Nam năm 2023 giảm 20% so với 2022, nhưng so với thập niên 1990 vẫn tăng khoảng 10%. Hiện nay, nhiều sản phẩm sinh học hiệu quả ngoài vẫn chưa được đăng ký lưu hành do tiêu chí đánh giá theo chuẩn hóa học.
PGS.TS. Lê Văn Vàng cho rằng, để thuốc sinh học trở thành trụ cột trong sản xuất cần tăng giám sát đồng ruộng; kết hợp linh hoạt hóa học, sinh học; đẩy mạnh truyền thông và hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân; duy trì đầu tư dài hạn. Sử dụng thuốc sinh học không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu tất yếu cho nông nghiệp Việt Nam.
Nông nghiệp khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế
Theo GS.TS Nguyễn Văn Tuất, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam, dịch hại trên lúa ở Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm qua diễn biến phức tạp với rầy nâu, bệnh lem lép hạt, chuột và ốc bươu vàng. Cùng với diễn biến dịch hại, lượng thuốc BVTV sinh học đang có xu hướng tăng trở lại, hiện chiếm gần 20% tổng số thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam và tiếp tục tăng nhanh, nhiều địa phương đã ban hành chương trình phát triển thuốc sinh học, góp phần mở rộng diện tích ứng dụng.
GS.TS Nguyễn Văn Tuất cho biết, Việt Nam hiện có nhiều nhóm thuốc sinh học, với hơn 850 sản phẩm đăng ký. Mục tiêu đến 2025, tỷ lệ đăng ký thuốc sinh học đạt 30%, tỷ lệ sử dụng thực tế đạt 20%. Nhiều mô hình ứng dụng thuốc sinh học trên lúa ở Đồng Tháp, An Giang, Tây Ninh cho thấy hiệu quả tích cực. Hiện nay, các cơ quan chuyên môn đang rà soát, sửa đổi quy định nhằm khuyến khích việc sử dụng chế phẩm sinh học.
GS.TS. Nguyễn Văn Tuất nhận định, khi chất lượng sản phẩm được kiểm soát tốt và người dân được hướng dẫn đầy đủ, thuốc BVTV sinh học hoàn toàn có thể thay thế dần thuốc hóa học trong nhiều mô hình sản xuất. Đây cũng là hướng đi phù hợp với mục tiêu nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ và giảm tồn dư hóa chất trong nông sản.
Theo đánh giá, biện pháp sinh học được xem là giải pháp bền vững giúp kiểm soát dịch hại an toàn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại ĐBSCL, nhằm tạo hạt nhân cho một kỷ nguyên phát triển lúa gạo xanh và bền vững. Việc áp dụng chế phẩm sinh học ngày càng gia tăng, góp phần đảm bảo hạt gạo sạch, an toàn cho người tiêu dùng trong nước và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu cho doanh nghiệp và đất nước.
Ông Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam cho biết, thuốc BVTV đóng vai trò then chốt trong phát triển lúa gạo xanh và bền vững, đặc biệt là việc sử dụng các chế phẩm sinh học, vốn ngày càng được quan tâm và áp dụng rộng rãi. Mục tiêu là tạo ra những hạt gạo Việt Nam “xanh, sạch”, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng trong nước và nâng cao giá trị xuất khẩu. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong trồng trọt, kết hợp chế phẩm sinh học, hướng tới mục tiêu thịnh vượng cho nông dân và bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai.
Sử dụng thuốc BVTV sinh học đang trở thành xu hướng tất yếu trong sản xuất lúa gạo tại ĐBSCL, giúp giảm hóa chất, bảo vệ môi trường và nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam đối với người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Với sự đồng hành của các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân cùng đồng hành với nhau sẽ giúp ổn định năng suất, kiểm soát dịch hại hiệu quả, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, hướng tới sản xuất nông nghiệp xanh và bền vững.
Nguồn: https://baolaocai.vn/che-pham-sinh-hoc-giai-phap-de-canh-tac-lua-gao-ben-vung-post887086.html






Bình luận (0)