Ông Lê Bá Dương - Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hội cho rằng, những lợi ích vượt trội từ việc ứng dụng công nghệ số (IoT, Big Data, AI...) trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản là hiển nhiên, nông dân không ai không biết đến điều đó. Ứng dụng công nghệ số, công nghệ sinh học giúp nhà nông nắm rõ những dữ liệu về môi trường, phân tích các loại đất, đặc điểm sinh học cây trồng, các giai đoạn sinh trưởng của cây... Trên cơ sở những dữ liệu được cung cấp bởi các ứng dụng công nghệ, nông dân sẽ đưa ra quyết định phù hợp: bón loại phân gì, liều lượng nước tưới bao nhiêu, thời điểm phun thuốc bảo vệ thực vật thích hợp, nông sản đã đủ tuổi thu hoạch hay chưa. Nhờ vậy, nhà nông vừa giảm được chi phí sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước, giảm hoang hóa đất, vừa bảo vệ được sự đa dạng sinh học. “Việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất nông sản giúp cho việc quản lý điều hành của nông dân thêm hiệu quả, việc đưa ra các quyết định xử lý cũng nhanh hơn, chính xác hơn, kịp thời hơn vì đã có những thông báo từ hệ thống công nghệ số”, ông Lê Bá Dương chia sẻ.
Trực tiếp canh tác nông nghiệp trên mảnh đất rộng 2,5 ha của gia đình, ông Phan Thanh Nhân - một nông dân ở xã Quảng Lập trao đổi, nông dân vừa là người làm ra nông sản, vừa là chủ thể tạo ra diện mạo mới cho nông thôn. Thế nên, mọi thay đổi ở nông thôn cần bắt đầu từ nông dân và vì nông dân để xây dựng những mô hình sản xuất nông nghiệp đem lại những lợi ích thiết thực. Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là cách để xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp nông thôn: gắn sản xuất, tiêu thụ nông sản với phát triển farmstay. Qua mô hình farmstay, nông dân có thể “xuất khẩu” nông sản tại chỗ, thay vì bán sỉ nông sản cho thương lái như trước kia. Theo ông Phan Thanh Nhân, với việc thiết lập những liên kết chuỗi giá trị, nông dân trở thành những doanh nhân nông nghiệp, đưa nông sản ra thị trường, qua đó nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho lao động nông thôn, góp phần đưa diện mạo nông thôn ngày càng giàu đẹp.
Tuy nhiên, trở ngại nhất hiện nay, khi nông dân bắt tay chuyển đổi số, đó là phân khúc trách nhiệm. “Nông dân không phải là nhà khoa học nên những hiểu biết của người nông dân về các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không thể như nhà khoa học. Do vậy, cái nông dân cần khi thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp chính là sự liên kết trách nhiệm của nhà khoa học với nông dân. Nhà khoa học có thể tư vấn cho người nông dân cách chăm sóc cây trồng trên phần mềm chuyên dụng hoặc giới thiệu cho nông dân loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật của đơn vị nào bảo đảm chất lượng cũng trên phần mềm chuyên dụng. Sau khi thu hoạch nông sản, nếu nông sản tồn dư, dư lượng hóa chất, nông sản không xuất khẩu được thì trách nhiệm đó thuộc về ai cũng cần phải rõ ràng”, ông Phan Thanh Nhân bộc bạch.
Theo ông Phan Thanh Nhân, để chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp thành công, cần có đơn vị liên kết các siêu thị với nông dân, chỉ cần quét mã QR siêu thị là có thể đặt mua các sản phẩm nông sản từ nhà nông. Vấn đề còn lại là logistics. Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hội Lê Bá Dương nói thêm: “Chi phí đầu tư cho ứng dụng công nghệ số cao cũng là một trở ngại đối với nông dân”.
Theo ông Lê Bá Dương, ở khu vực Tân Hội, chi phí đầu tư hệ thống tưới tự động cho 1 sào sản xuất nông nghiệp hiện dao động từ 10 - 15 triệu đồng, trong khi chi phí đầu tư hệ thống nhà kính cho 1 sào sản xuất nông nghiệp tầm 30 triệu đồng. Bà Ka Să Ana - một nông dân ở xã Tân Hội bày tỏ: “Với chi phí đầu tư cao như vậy, nếu không có sự hỗ trợ vốn của nhà nước, nông dân rất khó để thực hiện việc chuyển đổi số trong nông nghiệp”.
Nguồn: https://baolamdong.vn/chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-goc-nhin-cua-nha-nong-394117.html
Bình luận (0)