Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Phát huy vai trò của truyền thông đối ngoại trong kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại

TCCS - Truyền thông đối ngoại thực hiện sứ mệnh kết nối trong nước và quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong gìn giữ và phổ biến những giá trị cốt lõi của cộng đồng xã hội, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Theo đó, truyền thông đối ngoại cần phát huy hơn nữa trong kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản20/07/2025

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại trao giải cho tập thể và các cá nhân đoạt giải tại Lễ trao Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại lần thứ 10, ngày 3-12-2024_Ảnh: TTXVN

Sức mạnh dân tộc Việt Nam và sức mạnh thời đại mới

Sức mạnh hay quyền lực (power) là khái niệm trung tâm trong chính trị và quan hệ quốc tế. Hầu hết tương tác quốc tế đều mang tính chính trị hoặc có tác động đến chính trị nhằm tạo ra sức mạnh và ảnh hưởng chi phối đến một/một số chủ thể khác. Trong đó, các quốc gia được cho là thường “tìm cách tối đa hóa quyền lực tương đối với các quốc gia khác, tạo ra cân bằng quyền lực hoặc tìm cách tạo ra cân bằng quyền lực”(1).

Sức mạnh tổng hợp của một quốc gia, dân tộc là tập hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, trong đó tính chính nghĩa của dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân có tầm quan trọng đặc biệt(2). Giáo sư Josepth Nye - nguyên Hiệu trưởng Trường Quản trị công Kennedy, thuộc Đại học Harvard (Mỹ), nguyên trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - khi bàn về sức mạnh của các quốc gia đã khái quát thành hai dạng thức là “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. “Sức mạnh cứng” là phạm trù có thể định lượng, là nguồn lực hữu hình liên quan tới sức mạnh kinh tế và quân sự; “sức mạnh mềm” là tổng hòa những yếu tố vô hình, như văn hóa, tư tưởng và thể chế của một dân tộc. “Sức mạnh mềm” là “khả năng tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút để các nước khác “tự nguyện” thay đổi hành vi, chính sách phù hợp với điều mà mình mong muốn, thay vì ép buộc thông qua sức mạnh kinh tế và quân sự(3).

Việt Nam là một quốc gia có lịch sử, truyền thống lâu đời và nội lực dân tộc mạnh mẽ để đấu tranh, bảo vệ nền độc lập trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. “Sức mạnh mềm” của Việt Nam bắt nguồn từ sự hấp dẫn về văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực hợp lòng người và nguồn lực chính sách đối ngoại quốc gia(4). Cụ thể:

Về văn hóa: Sức hấp dẫn của văn hóa Việt Nam không chỉ đến từ bản sắc riêng biệt, mà còn từ sự đa dạng, phong phú và khả năng dung nạp những yếu tố văn hóa bên ngoài. Nền văn hóa Việt Nam là “thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của các nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”(5). Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định: văn hóa Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam, làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước; “chất văn hóa... là tinh hoa của dân tộc, của quý nhất mà ngày nay mọi người Việt Nam chúng ta tự hào là người thừa kế và phát triển”(6). Trải qua bao biến cố và thăng trầm của lịch sử, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng văn hóa Việt Nam không bị “đồng hóa”, mà vẫn giữ vững bản sắc và thể hiện sức sống mãnh liệt trong khả năng tiếp biến linh hoạt và đầy sáng tạo.

Về giá trị chuẩn mực: “Sức mạnh mềm” của Việt Nam nằm ở những giá trị chuẩn mực hợp lòng người, là ý chí quật cường, tinh thần bền bỉ đấu tranh giành độc lập dân tộc, truyền thống đoàn kết cộng đồng, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn; cùng với đó là tinh thần yêu chuộng hòa bình, bản chất nhân nghĩa, hòa hiếu, khoan dung… Trong đó, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc là một trong những giá trị tự hào nhất. Lịch sử Việt Nam cho thấy, mọi thắng lợi đều đến từ sự đồng lòng của nhân dân. Tư tưởng “dân là gốc” từ thời kỳ ông cha ta đến thời đại Hồ Chí Minh luôn được đặt lên hàng đầu trong mọi quyết sách. Điều đó đã giúp Việt Nam duy trì được nền độc lập, thống nhất đất nước và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Những giá trị này không chỉ được thể hiện trong lịch sử, mà còn trong các thời kỳ hiện đại, hướng tới lợi ích chung của toàn dân tộc. Phát huy các giá trị tinh thần nhằm tạo thành sức mạnh, nội lực, động lực quan trọng, yêu cầu tất yếu, quyết định đưa đến thành công của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

Về nguồn lực chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại của Việt Nam luôn thể hiện khát vọng sống hòa bình, hợp tác và tôn trọng sự khác biệt trong một thế giới đa dạng. Qua các thời kỳ và đến thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần khoan dung, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế. Triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại đã giúp Việt Nam xây dựng được hình ảnh một quốc gia phát triển năng động và hòa hiếu. Từ chỗ chưa có tên trên bản đồ thế giới, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu lục khác nhau, có mối quan hệ “đặc biệt” với 3 nước(7), quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” với 12 nước(8), quan hệ “đối tác chiến lược” với 8 nước(9), quan hệ “đối tác toàn diện” với 14 nước(10), quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ... Tham gia ngày càng tích cực các tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu, trong đó có Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Tổ chức thành công nhiều hội nghị, đàm phán quốc tế, như Hội nghị cấp cao ASEM; đảm nhiệm thành công vai trò chủ nhà của APEC trong các năm 2006, năm 2017; Chủ tịch ASEAN năm 2010 và năm 2020; Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và nhiệm kỳ 2019 - 2020; Cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019... Qua kênh ngoại giao văn hóa và nhiều kênh ngoại giao khác, thế giới biết nhiều hơn về một đất nước Việt Nam giàu đẹp, hiếu khách, kiên cường, hòa hiếu, thủy chung với hàng nghìn năm văn hiến; uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng; dấu ấn Việt Nam ngày càng sâu đậm; “sức mạnh mềm” của Việt Nam nói chung, của văn hóa nói riêng ngày càng được nhân lên, trở thành một trong những động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (11).

Sức mạnh thời đại mới Top of Form là những xu hướng lớn của thế giới, những dòng chảy chính của nhân loại(12). Cụ thể hơn, đó là các xu thế tiến bộ trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học - công nghệ,… cùng những lực lượng quyết định chiều hướng của hòa bình, dân chủ, bình đẳng và thịnh vượng của các quốc gia(13). Trong thời đại ngày nay, sức mạnh đến từ: 1- Cuộc cách mạng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (blockchain) và những công nghệ tiên tiến khác đang thay đổi nhanh chóng trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế, xã hội đến giáo dục, y tế. Công nghệ không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách con người giao tiếp, làm việc và sinh sống; 2- Những thay đổi nhanh chóng trong tư duy đổi mới sáng tạo sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, thúc đẩy các quốc gia chú trọng đến sáng tạo, đổi mới, khởi nghiệp và khả năng thích nghi; 3- Quá trình toàn cầu hóa tiếp tục là một yếu tố quan trọng của thế kỷ XXI, khi các quốc gia và nền kinh tế ngày càng kết nối với nhau, mở rộng mối quan hệ thương mại, văn hóa, khoa học - công nghệ. Điều này tạo ra cơ hội, nhưng đồng thời cũng mang đến không ít thách thức khiến các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.

“Sức mạnh mềm” (văn hóa, giáo dục và các giá trị dân chủ, dân tộc, quốc gia) càng trở nên quan trọng trong xây dựng hình ảnh quốc gia, từ đó kiến tạo cơ hội, tăng cường lòng tin, thu hút các nguồn lực để phát triển đất nước, gây dựng ảnh hưởng và nâng tầm vị thế quốc tế. Việc thực hiện mục tiêu xây dựng hình ảnh quốc gia từ nguồn lực “sức mạnh mềm” cũng thuận lợi hơn nhờ hệ thống phương tiện truyền thông ngày càng phát triển. Tuy nhiên trên thực tế, việc tranh thủ những lợi thế, tiện ích của các phương tiện truyền thông xã hội trong công tác thông tin, tuyên truyền có thể đáp ứng được nhu cầu tiếp cận thông tin nhanh chóng của công chúng, nâng cao tầm ảnh hưởng quốc gia, song điều này cũng trở thành “con dao hai lưỡi” bởi những nguy cơ về an ninh mạng, thông tin xấu, độc, tin giả có thể lan truyền rộng rãi trong thời gian ngắn, nghiêm trọng hơn là khi các thế lực thù địch, phản động lợi dụng các phương tiện truyền thông xã hội xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, lôi kéo, kích động bạo loạn, biểu tình, gây mất an ninh, trật tự công cộng,... Nhìn chung, những yếu tố trên không chỉ phản ánh sức mạnh thời đại hiện nay, mà còn là cơ hội mang tính cộng hưởng khi kết hợp cùng sức mạnh dân tộc Việt Nam.

Phóng viên tác nghiệp tại một sự kiện_Nguồn: Tư liệu

Phương thức sử dụng truyền thông đối ngoại để gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia  

Theo quan niệm của học giả David A. Baldwin thuộc Đại học Princeton (Mỹ), các quốc gia có thể gia tăng ảnh hưởng sức mạnh thông qua bốn phương thức: 1- Phương thức biểu tượng (sức hấp dẫn của các biểu tượng mang tính quy chuẩn và thông tin thông qua những bài diễn ngôn, tuyên truyền, câu chuyện); 2- Phương thức kinh tế; 3- Phương thức quân sự; 4- Phương thức ngoại giao (bao gồm cả thực tiễn ngoại giao và các hình thức đàm phán, tiếp xúc)(14).

Dưới góc độ tiếp cận này, truyền thông đối ngoại được xem là công cụ chủ yếu để thực hiện phương thức biểu tượng và đóng vai trò quan trọng đối với phương thức ngoại giao. Đồng thời, phương thức kinh tế và phương thức quân sự cần kết hợp chặt chẽ với phương thức biểu tượng và phương thức ngoại giao để đạt được mục tiêu đề ra.

Do vậy, truyền thông đối ngoại đóng vai trò quan trọng đối với việc phổ biến và cạnh tranh ảnh hưởng sức mạnh trong quan hệ quốc tế. Phương thức biểu tượng và phương thức ngoại giao là hai nội dung chủ yếu của truyền thông đối ngoại. Để đạt được mục tiêu của phương thức biểu tượng, sử dụng đến truyền thông đại chúng (sách, báo chí, truyền hình, phát thanh, các phương tiện truyền thông mới) hoặc các kênh giao tiếp trực tiếp qua đàm phán, tiếp xúc để thuyết phục công chúng quốc tế (ngoại giao công chúng). Dựa trên đặc tính và chức năng của truyền thông quốc tế, có thể thấy truyền thông đối ngoại chính là công cụ “sức mạnh mềm” chủ lực để tạo ảnh hưởng ở cả ba cấp độ: toàn cầu, quốc gia và cá nhân(15).

Truyền thông đối ngoại có vai trò thông tin hai chiều, đó là: thông tin trong nước hướng ra thế giới và thông tin từ quốc tế vào trong nước. Đây là các hoạt động truyền thông của chính phủ nhằm hướng tới đối tượng công chúng và chính phủ nước ngoài; là hoạt động có chủ đích của một quốc gia hướng tới chính phủ và nhân dân của các quốc gia khác để thông tin mọi mặt về quốc gia mình, nhằm xây dựng hình ảnh quốc gia ở bên ngoài theo cách quốc gia đó mong muốn. Truyền thông đối ngoại là phương thức khá phổ biến trên thế giới để góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, chủ thể hoạt động của truyền thông đối ngoại cũng được mở rộng, không chỉ ở phạm vi “chính phủ hay cơ quan nhà nước”, mà còn có vai trò của các cá nhân, như các nhà lãnh đạo, trí thức có ảnh hưởng lớn trong xã hội (nhà khoa học, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà văn hóa và nghệ sĩ lớn).

Đối với Việt Nam, với mục đích gia tăng hàm lượng thông tin tích cực, chính xác về đất nước Việt Nam đến với cộng đồng quốc tế và ngược lại, truyền thông đối ngoại không chỉ phân tích, đánh giá, giải thích và chắt lọc những thông tin có ý nghĩa để phổ biến trong nước, mà còn là cầu nối giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác, là lực lượng quan trọng quảng bá và nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam, góp phần thu hút các nguồn lực để phát triển đất nước. Hiện nay, công tác truyền thông đối ngoại của Việt Nam có nhiều thuận lợi do nước ta có quan hệ ngoại giao rộng mở và hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc, kết nối Việt Nam với thế giới ngày càng hiện đại, nhanh chóng, kịp thời. Bên cạnh đó, lực lượng truyền thông đối ngoại của Việt Nam cũng ngày càng đông đảo và đa dạng, từ các cơ quan nhà nước các cấp đến các cơ quan truyền thông chủ lực, các tổ chức truyền thông...

Một số gợi mở đối với Việt Nam trong phát huy vai trò của truyền thông đối ngoại thời gian tới

Nhìn chung, với những tiện ích mà xã hội số mang lại, các quốc gia cũng phải đối mặt với không ít cuộc chiến tranh thông tin đến từ nhiều bên, khó kiểm chứng tính xác thực. Hơn nữa, việc ứng dụng công nghệ AI trong truyền thông hiện nay trở nên khá phổ biến, mang đến những thuận lợi khi tạo ra nhiều sản phẩm truyền thông phong phú, song cũng đặt ra khó khăn đối với công tác truyền thông đối ngoại, khi con người sử dụng AI vào mục đích không phù hợp. Trong xu thế toàn cầu hóa và chuyển đổi số đang có những tác động sâu rộng đối với mỗi quốc gia, Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ phải “đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại”(16). Trên nền tảng những thành tựu đã đạt được, nhìn nhận sâu sắc các hạn chế, yếu kém, để công tác truyền thông đối ngoại phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò trong thời gian tới, cần tập trung vào một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về công tác thông tin, truyền thông đối ngoại, nhằm “quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”(17). Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, người đứng đầu, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là những cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ làm công tác thông tin đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với quan hệ giữa Việt Nam và các nước, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế(18).

Thứ hai, không ngừng phát huy thế mạnh của báo chí đối ngoại - lực lượng quan trọng của công tác truyền thông đối ngoại, trong quảng bá, lan tỏa hình ảnh đến công chúng, cộng đồng quốc tế trong bối cảnh công nghệ số, kỹ thuật số đang có những bước phát triển mạnh mẽ; chú trọng sử dụng công nghệ “lắng nghe dư luận” (social listening) nhằm nắm bắt thông tin, xây dựng nội dung quảng bá hình ảnh phù hợp; tạo ra những thông điệp chính sách ngắn gọn, súc tích, các “câu chuyện truyền thông” về đất nước, con người Việt Nam, “tạo xu hướng”, “nắm bắt xu hướng” trên các phương tiện truyền thông xã hội; tăng cường các sản phẩm clip, video, hình ảnh, biểu đồ dưới dạng số sinh động, dễ hiểu.

Thứ ba, đẩy mạnh sử dụng công cụ truyền thông mới trong kết nối các hoạt động tiếp xúc đối ngoại, giúp tập hợp và khơi thông nguồn lực, tạo sự đồng thuận của xã hội nhằm đạt được mục tiêu chung thông qua việc đưa tin, giải thích và thuyết phục công chúng trong nước và ngoài nước. Vai trò kết nối là đặc trưng nền tảng của thông tin(19) để tạo dựng sức mạnh, bởi nhờ kết nối thông tin giúp huy động nguồn lực xã hội đạt hiệu quả hơn. Phát triển khoa học - công nghệ hướng tới việc người dân có thể làm chủ công nghệ, sử dụng hiệu quả phương tiện truyền thông mới trong việc nâng cao vốn văn hóa, bồi đắp những hệ giá trị văn hóa tốt đẹp, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần nâng cao “sức mạnh mềm” của dân tộc.

Thứ tư, xây dựng chiến lược quảng bá hình ảnh đất nước một cách tổng thể, huy động sự chung tay của toàn hệ thống chính trị ở cả trong nước và ngoài nước. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã xây dựng chiến lược truyền thông, quảng bá hình ảnh thương hiệu quốc gia từ rất sớm, triển khai quy mô và thành công; cơ chế, chính sách thường xuyên được bổ sung, cập nhật, hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Xây dựng một chiến lược tổng thể, lồng ghép hoạt động ngoại giao văn hóa trong triển khai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển văn hóa,... nhằm tạo tính cộng hưởng trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước. Đây sẽ là cơ sở để việc quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới được triển khai bài bản, hiệu quả.

Thứ năm, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh, giúp Việt Nam xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các quốc gia khác thông qua sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tạo nền tảng cho hợp tác và giao thương quốc tế. Bên cạnh các hoạt động ngoại giao chính thức, lồng ghép các hoạt động bên lề (trình chiếu phim ảnh, triển lãm nghệ thuật, giới thiệu sản phẩm địa phương…) gắn với mục tiêu truyền thông về đất nước và con người Việt Nam từ truyền thống tới hiện đại. Mở rộng xây dựng trung tâm văn hóa ngôn ngữ Việt Nam ở nước ngoài, phổ biến các giá trị Việt Nam tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài qua các thế hệ bằng việc giữ gìn ngôn ngữ và văn hóa. Một hình ảnh tích cực về Việt Nam có thể tạo ra niềm tin từ các nhà đầu tư và doanh nghiệp quốc tế, đồng thời kích thích sự phát triển kinh tế thông qua việc thu hút vốn đầu tư và hợp tác kinh doanh.

Thứ sáu, đẩy mạnh truyền thông trong giáo dục, đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, từ gia đình, nhà trường đến xã hội, từ gốc rễ của vấn đề là yếu tố con người, đạo đức cá nhân đến nền đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ là kết quả của nhận thức cá nhân và văn hóa đạo đức cá nhân. Văn hóa đạo đức cá nhân được xem là khởi nguồn của ngoại giao văn hóa và mỗi người dân là sứ giả của nền văn hóa dân tộc. Có thể thấy, đó là một chuỗi những giá trị và suy cho cùng đều hướng về một nguyên nhân sâu xa là giáo dục - vấn đề không chỉ của riêng xã hội, hay nền giáo dục - đào tạo, mà còn là của mỗi gia đình - tế bào của xã hội. Khi có nhận thức đúng đắn, mỗi người dân sẽ là một biểu tượng, là “kênh” truyền thông góp phần lan tỏa mạnh mẽ nét đẹp văn hóa của đất nước Việt Nam đến với cộng đồng thế giới.

Tóm lại, truyền thông đối ngoại hiện nay không chỉ là phương tiện giao tiếp đơn thuần, mà còn là phương tiện quan trọng để mỗi quốc gia khẳng định quảng bá hình ảnh, thương hiệu. Do đó, những nội dung truyền tải trên các phương tiện truyền thông đối ngoại cần bám sát đường lối, chính sách đối ngoại và đặc biệt là có tính nhất quán giữa các nội dung với nhau để triển khai hiệu quả giá trị thông điệp đối ngoại. Thực tiễn cho thấy, giữa các kênh truyền thông đối ngoại có lúc chưa thể hiện được sự thống nhất về nội dung thông điệp đối ngoại. Bên cạnh đó, tính thống nhất còn thể hiện ở hệ thống nhận diện trên các nền tảng truyền thông, thông tin truyền tải đều phải nhất quán về thông điệp, nội dung cho đến biểu tượng thiết kế đặc trưng. Điều này không những giúp thúc đẩy mức độ nhận diện cao, mà còn tăng khả năng tiếp cận, gia tăng mức độ ảnh hưởng thông điệp đối với công chúng quốc tế. Nói cách khác, để tối ưu hóa, thông điệp phải có sự thống nhất về mặt nội dung cũng như hình thức, đặc biệt cần mang tính bản sắc để mỗi đối tượng công chúng quốc tế khi tiếp nhận thông điệp đều nhận biết được rằng đó là những thông điệp đến từ Việt Nam, là giá trị Việt Nam. Chính vì vậy, việc xác định rõ vai trò và phát huy hiệu quả vai trò của truyền thông đối ngoại trong kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là yêu cầu khách quan, cần thiết nhằm góp phần xứng đáng vào quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng, sắp tới là Đại hội XIV của Đảng, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

--------------------

(1), (14) David A. Baldwin: “Power and International Relations” (Tạm dịch: Quyền lực và quan hệ quốc tế) trong Carlsnaes - W., Risse-Kappen - T., Risse - T., Nguomons - B.A. (Eds.): Handbook of International Relations (Tạm dịch: Sổ tay Quan hệ quốc tế), Sage, 2002
(2) Vũ Dương Huân: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2022, tr. 56
(3) J. Nye: “Think Again: Soft Power” (Tạm dịch: Suy nghĩ lại: Quyền lực mềm), EP, ngày 23-2-2006, https://foreignpolicy.com/2006/02/23/think-again-soft-power/
(4) Lê Hải Bình - Lý Thị Hải Yến: “Vai trò của công tác thông tin đối ngoại trong việc phát huy nguồn lực sức mạnh mềm Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (124), tháng 3-2021
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 40
(6) Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 17
(7) Lào, Cuba và Campuchia
(8) Trung Quốc (năm 2008), Nga (năm 2012), Ấn Độ (năm 2016), Hàn Quốc (năm 2022), Hoa Kỳ (năm 2023), Nhật Bản (năm 2023), Australia (năm 2024), Pháp (năm 2024), Malaysia (năm 2024), New Zealand (năm 2025), Indonesia (năm 2025), Singapore (năm 2025)
(9) Tây Ban Nha (năm 2009), Anh (năm 2010), Đức (năm 2011), Italia (năm 2011), Thái Lan (năm 2013), Philippines (năm 2015), Brazil (năm 2024), Séc (năm 2025)
(10) Nam Phi (năm 2004), Chile (năm 2007), Venezuela (năm 2007), Argentina (năm 2010), Ukraine (năm 2011), Đan Mạch (năm 2013), Myanmar (năm 2017), Canada (năm 2017), Hungari (năm 2018), Brunei (năm 2019), Hà Lan (năm 2019), Mông Cổ (năm 2024), UAE (năm 2024), Thụy Sĩ (năm 2025)
(11), (16), (17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 164 - 165, 155
(12) Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008
(13) Vũ Dương Huân: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, Sđd, tr. 57
(15) Lý Thị Hải Yến (Chủ biên), Truyền thông và quan hệ quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 177
(18) Kết luận số 57-KL/TW, ngày 15-6-2023, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”
(19) Yoval Noah Harari: Nexus, Mega Plus và Nxb. Thế giới, 2024, tr. 49

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1109402/phat-huy-vai-tro-cua-truyen-thong-doi-ngoai-trong-ket-hop-suc-manh-dan-toc-va-suc-manh-thoi-dai.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Lạc bước giữa thế giới hoang dã tại vườn chim ở Ninh Bình
Ruộng bậc thang Pù Luông mùa nước đổ đẹp nao lòng
Những thảm nhựa 'nước rút' trên cao tốc Bắc - Nam qua Gia Lai
PIECES of HUẾ - Mảnh ghép của Huế

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm

Happy Vietnam
KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH
KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH