Phải giúp tạo nguồn giáo viên tại chỗ cho miền núi, biên giới
Từ hình ảnh trong chương trình “Thắp sáng tương lai” trên VTV1: Một cô giáo dắt một em bé 3 tuổi, bước qua đồi núi, mưa rét, để đưa được thêm một học sinh đến lớp, ĐBQH Lý Thị Lan (Tuyên Quang) cho rằng, giữa những báo cáo, chỉ tiêu, điều luật trước mắt chúng ta, chính những hình ảnh ấy nhắc rằng: giáo dục miền núi không chỉ là chuyện của trường lớp, mà trước hết là câu chuyện của từng con người.
Mặt khác, ở vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số nếu không giải được bài toán mầm non, mọi mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đều không thể thành hiện thực. Trẻ mầm non không thể đi bộ đường dài; không ở bán trú dài ngày vì còn quá nhỏ; địa hình chia cắt, việc đến lớp khó khăn, không thể vận hành trường mầm non như khu vực thuận lợi.
Vì vậy, theo đại biểu Lý Thị Lan, điểm trường mầm non không phải là sự lựa chọn mà là đặc thù khách quan ở các tỉnh miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Dù cơ sở vật chất đã được đầu tư, nhưng nếu không có giáo viên ngay tại thôn bản, chúng ta không thể mở lớp cho nhóm trẻ 2-3 tuổi và càng không thể đạt mục tiêu phổ cập mầm non 3-5 tuổi ở vùng này.
Với những lý do nêu trên, đại biểu đề nghị bổ sung vào Điều 29 Luật Giáo dục (sửa đổi): “Địa phương được tổ chức mô hình trường chính - điểm trường - nhóm trẻ phù hợp điều kiện địa hình; Nhà nước bảo đảm biên chế và điều kiện tối thiểu cho điểm trường mầm non tại vùng miền núi, biên giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số".
“Đây sẽ là cơ sở pháp lý bảo đảm các tỉnh miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số duy trì điểm trường một cách bền vững, có phân bổ về biên chế, không còn tình trạng “muốn mở lớp nhưng không có cô, muốn duy trì điểm trường mầm non nhưng không có vị trí việc làm”. Thực hiện đúng quan điểm xuyên suốt “ở đâu có học sinh thì phải có thầy giáo”.
Mô hình này cũng sẽ giúp bảo đảm sự thống nhất với định hướng chung trường lớp vùng miền núi, biên giới. Theo đó, mầm non gắn với tại chỗ, gần dân, và dựa vào điểm trường, nhóm trẻ. Tiểu học và THCS đào tạo tập trung, thực hiện theo mô hình bán trú liên cấp”, đại biểu nhấn mạnh.
Không phải cơ sở vật chất hay thiết bị chính nhà giáo là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo viên nói chung, Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học trong lần sửa đổi, bổ sung này đã có những quy định để nâng chuẩn trình độ giáo viên lên.
Cho rằng những sửa đổi nêu trên là cần thiết và đúng đắn, song đại biểu Lý Thị Lan cho rằng, với vùng miền núi, biên giới lại tạo ra khoảng trống lớn. Bởi, học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế về tiếng Việt, kỹ năng học thuật dù đã được đào tạo rất tốt trong hệ thống trường bán trú, liên cấp nội trú 12 năm. Nhiều học sinh có phẩm chất sư phạm nhưng không đạt chuẩn đầu vào các trường đại học sư phạm, cơ hội trở thành giáo viên ở chính quê hương mình sẽ khép lại.
Do vậy, đề nghị bổ sung vào Điều 14 Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định: “Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức chương trình dự bị sư phạm một năm dành cho học sinh dân tộc thiểu số và học sinh vùng miền núi, biên giới trước khi vào học chính khóa". Đây là cách để không hạ chuẩn, không nới lỏng chất lượng, nhưng tạo một “nhịp cầu” giúp học sinh vùng cao bước vào đại học sư phạm với năng lực đầy đủ, đạt chuẩn chất lượng.
Đại biểu Lý Thị Lan cũng nhấn mạnh, trong Ngày Nhà giáo Việt Nam, món quà ý nghĩa nhất chúng ta có thể gửi tới giáo viên vùng cao không phải là những bó hoa, mà là những chính sách đúng, kịp thời và chạm tới những điều họ cần nhất: có lớp để dạy, có trò để giữ và có tương lai để gửi gắm. Những chính sách đó cũng là lời cam kết trách nhiệm của đại biểu Quốc hội “không một trẻ em nào bị bỏ lại phía sau trên hành trình đến trường và học tập suốt đời".
Cần công nhận văn bằng đào tạo sau đại học trong lĩnh vực y tế
Tại khoản 2 điều 8 dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã được tiếp thu cập nhật quy định “lĩnh vực khoa học sức khỏe cấp văn bằng theo quy định của Bộ Y tế”. Tuy nhiên, các nội dung liên quan đến quy định về văn bằng, chương trình đào tạo đang dự kiến sửa đổi ở Luật Giáo dục chưa đề cập đến vấn đề này.
Báo cáo giải trình, tiếp thu của Ban soạn thảo đang nêu ra các lý do chưa công nhận các văn bằng đào tạo sau đại học của lĩnh vực sức khỏe trong hệ thống văn bằng đào tạo quốc dân. Theo đó, các chương trình đào tạo dành cho người học sau khi tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực khoa học sức khỏe… là đào tạo hành nghề. Các chương trình đào tạo chuyên khoa y tế không cấu trúc theo các chương trình đào tạo học thuật (môn học tiên quyết, môn học cốt lõi, kỹ năng nghiên cứu, sản phẩm nghiên cứu, đóng góp mới).
Các ĐBQH Trần Khánh Thu (Hưng Yên), Nguyễn Trí Thức (TP. Hồ Chí Minh)... cho rằng, lý lẽ được Báo cáo giải trình, tiếp thu đưa ra là không công bằng với hệ thống đào tạo sau đại học lĩnh vực y tế, gây tâm tư cho cán bộ, nhân viên công tác trong ngành. Trong khi đó, việc đào tạo sau đại học thuộc lĩnh vực y tế chưa được coi là chương trình đào tạo học thuật để cấp văn bằng đào tạo lại vì chưa được quy định trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đại biểu Nguyễn Trí Thức nhấn mạnh, các bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ nội trú là “tinh hoa của tinh hoa” trong ngành y. Đào tạo trong lĩnh vực y tế là đào tạo thực hành, phải thường xuyên gắn với cơ sở khám, chữa bệnh. Bác sĩ phải xem bệnh nhân là “người thầy” lớn nhất của đời mình. Do đó, sinh viên nào "càng ôm sách thì ra trường càng yếu tay nghề".
Để không có "khoảng trống" về mặt pháp lý, ĐBQH Huỳnh Thị Phúc (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) cần công nhận chính thức hình thức đào tạo bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II và nội trú. Bổ sung vào Điều 26 của dự thảo Luật theo hướng quy định “Các loại hình đào tạo đặc thù sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe, bao gồm chương trình bác sĩ chuyên khoa I, II và bác sĩ nội trú, được công nhận là chương trình đào tạo thuộc hệ thống giáo dục có chuẩn đầu ra tương đương trình độ sau đại học”.
Đồng thời, quy định Nhà nước có chính sách miễn học phí cho đối tượng học bác sĩ nội trú và hỗ trợ chính sách bao gồm lương, phụ cấp học hành, bảo hiểm nghề nghiệp và ưu tiên tuyển dụng trong hệ thống y tế công lập.
Và, quy định giao cho Bộ Y tế chủ trì thực hiện thẩm định, phê duyệt chương trình đào tạo khối ngành sức khỏe, để bảo đảm tính chuyên sâu, chuyên ngành, cũng như bảo đảm chất lượng đào tạo từ đầu với cả quá trình đào tạo, gắn với đó là giao trách nhiệm quản lý, giải trình. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên chỉ dừng ở vai trò phối hợp chặt chẽ, là một thành phần trong Hội đồng thẩm định, phê duyệt chương trình đào tạo y khoa.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/tranh-tao-khoang-trong-phap-ly-ve-dao-tao-giao-vien-bac-si-10396402.html






Bình luận (0)