Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Cạnh tranh địa - chính trị Mỹ - Trung Quốc trong không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia và gợi mở chính sách đối với Việt Nam

TCCS - Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hẹp hơn là Đông Nam Á và đặc biệt là không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia được đánh giá là tâm điểm cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự cạnh tranh này vừa mang lại cơ hội hợp tác phát triển, vừa đặt ra thách thức đối với việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, đồng thời củng cố quan hệ hợp tác đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, tạo dựng thế cân bằng chiến lược vững chắc vì mục tiêu an ninh - phát triển trong giai đoạn mới.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản08/11/2025

Không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia trong định hình mục tiêu cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc

Thời gian qua, bên cạnh mục tiêu cạnh tranh trực tiếp trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, công nghệ hay quân sự, từ đầu thế kỷ XXI đến nay, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc nổi lên trước hết là cạnh tranh về phạm vi và mức độ ảnh hưởng. Đây là xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế, bởi một cường quốc khi đạt đến vị thế bá quyền thường tìm mọi cách ngăn chặn sự xâm nhập của các nước lớn khác vào khu vực ảnh hưởng chiến lược của mình(1); đồng thời tối đa hóa quyền lực và lợi ích quốc gia thông qua việc kiểm soát các vùng địa - chiến lược cốt lõi (vành đai an ninh, vùng đệm quốc phòng - an ninh, khu vực ảnh hưởng truyền thống (“sân sau”) hay các không gian chiến lược mới nổi cần tranh giành và mở rộng ảnh hưởng). Bên cạnh đó, cạnh tranh ảnh hưởng trong thời đại mới không chỉ diễn ra bằng sức mạnh quân sự, mà còn thông qua “sức mạnh mềm”. Chính vì vậy, Mỹ và Trung Quốc chủ động lôi kéo, tập hợp lực lượng, thiết lập các liên kết chiến lược ở những khu vực địa - chính trị trọng yếu trên nhiều phương diện, qua đó mở rộng không gian ảnh hưởng, củng cố vị thế cường quốc và hướng tới ưu thế bá quyền.

 Trên thực tế, không gian chiến lược của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia thời gian qua được đánh giá giữ vị trí quan trọng trong tính toán chiến lược của các nước lớn. Đây không chỉ là vùng đệm địa - chính trị trên tuyến kết nối Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, mà còn là khu vực ảnh hưởng truyền thống trong cạnh tranh quyền lực ở Đông Nam Á lục địa. Với vị trí kiểm soát các tuyến giao thương liên lục địa, hành lang kinh tế - quân sự chiến lược, khu vực này trở thành tâm điểm cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc, gắn với mục tiêu tái định hình cán cân quyền lực khu vực và cấu trúc an ninh châu Á - Thái Bình Dương.

Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại cuộc gặp ở Busan, Hàn Quốc, ngày 30-10-2025_Ảnh: THX/TTXVN

Về phương thức và công cụ cạnh tranh ảnh hưởng, tùy thuộc đặc thù lịch sử quan hệ, mức độ đan xen lợi ích và tương quan quyền lực với các quốc gia trong khu vực, Mỹ và Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp khác nhau nhằm can dự, từng bước thiết lập “luật chơi” có lợi cho mình. Trong bối cảnh xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là dòng chảy chủ đạo của thời đại, các biện pháp can thiệp mềm hay cạnh tranh gián tiếp thông qua các công cụ kinh tế, chính trị, ngoại giao, công nghệ được Mỹ, Trung Quốc tích cực tận dụng. Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc có xu hướng điều chỉnh theo hướng “hòa dịu có kiểm soát”, chuyển từ đối đầu trực tiếp sang cạnh tranh gián tiếp, thông qua tập hợp lực lượng đa dạng cả về không gian, lĩnh vực và phạm vi nhằm từng bước thiết lập quan hệ chặt chẽ với các nước trong khu vực, tạo dựng mạng lưới đối tác. Từ đó, gia tăng can dự ở các mức độ khác nhau thông qua các cơ chế hợp tác khu vực, các sáng kiến, chính sách nhằm vừa mở rộng không gian ảnh hưởng chiến lược, tạo thế cân bằng có lợi cho mình, vừa kiềm chế đối thủ cạnh tranh. Cụ thể là:

Về kinh tế, nhằm tập hợp lực lượng và gia tăng ảnh hưởng, Mỹ và Trung Quốc đẩy mạnh triển khai các sáng kiến hợp tác song phương, đa phương và tiểu đa phương do những nước này dẫn dắt. Thông qua các hiệp định thương mại tự do, hành lang kinh tế, chuỗi cung ứng mở rộng và ưu đãi đầu tư - tài chính, các quốc gia vừa và nhỏ có thêm cơ hội tiếp cận thị trường, vốn, công nghệ của Mỹ và Trung Quốc, tuy nhiên không tránh khỏi dần phụ thuộc vào các nước lớn này.

Trung Quốc sử dụng hiệu quả “sức mạnh mềm”, tập hợp lực lượng theo mô hình “đàn sếu bay” đối trọng với tập hợp lực lượng do Mỹ dẫn dắt; nâng cao vị thế, ảnh hưởng và sự hiện diện tại các nước trong khu vực, với trọng tâm hợp tác kinh tế, thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng kết nối khu vực thông qua việc đẩy mạnh Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI), Sáng kiến Phát triển toàn cầu (GDI), Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI). Trung Quốc tăng cường ngoại giao láng giềng, coi trọng hợp tác với các nước láng giềng, khu vực với phương châm “thân, thành, huệ, dung”(4), thúc đẩy hình thành “Cộng đồng chung vận mệnh” với các nước trong khu vực. 

Ở phạm vi hẹp hơn, Trung Quốc tích cực triển khai Hợp tác Mekong - Lan Thương (MLC) theo khuôn khổ “3 + 5”, với ba trụ cột hợp tác gồm chính trị - an ninh, kinh tế - xã hội, phát triển bền vững - giao lưu nhân dân. Trên cơ sở đó, MLC xác định năm hướng ưu tiên hợp tác: kết nối hạ tầng; nâng cao năng lực sản xuất; thúc đẩy hợp tác kinh tế xuyên biên giới; quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong; phát triển nông nghiệp gắn với xóa đói, giảm nghèo. Đây là những lĩnh vực tác động trực tiếp đến phát triển, an ninh và ổn định của các quốc gia trong tiểu vùng sông Mekong. Không chỉ vậy, Trung Quốc thông qua Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) nhằm tạo lập ảnh hưởng đối với các nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tại Hội nghị Thượng đỉnh hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng lần thứ 8 (tháng 11-2024), Trung Quốc thể hiện rõ quan điểm thúc đẩy GMS với các mục tiêu mở cửa, đổi mới, kết nối và phối hợp, thúc đẩy giai đoạn hợp tác mới trên các lĩnh vực then chốt như hạ tầng, thương mại - đầu tư, phát triển nông nghiệp gắn với xóa đói, giảm nghèo. Qua đó, Trung Quốc coi GMS là một kênh bổ trợ quan trọng nhằm tiếp tục gia tăng ảnh hưởng về kinh tế và chiến lược trong tiểu vùng sông Mekong.

Đối với Mỹ, việc mở rộng ảnh hưởng tại không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia là một cấu phần quan trọng trong triển khai Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (IPS), đặc biệt thông qua Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF). Trước đó, ở phạm vi hẹp hơn, Mỹ từng bước gia tăng sự hiện diện tại tiểu vùng thông qua Sáng kiến lưu vực sông Mekong (LMI), thúc đẩy hợp tác các nước Việt Nam, Campuchia, Lào và Myanmar. Chính sách này nhằm cân bằng quyền lực của các nước lớn tại Đông Nam Á, nhất là đối trọng với sự gia tăng ảnh hưởng nhanh chóng của Trung Quốc trong khu vực.

Với trọng tâm thúc đẩy phát triển bền vững và quản trị nguồn nước xuyên biên giới, LMI tập trung vào các lĩnh vực nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, kết nối hạ tầng, phát triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển. Ngoài ra, Mỹ thúc đẩy Quan hệ đối tác Mekong - Hoa Kỳ (MUSP) thông qua các hội nghị bộ trưởng ngoại giao thường niên, nhằm nâng cao năng lực ứng phó biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, cải thiện kết nối kinh tế - hạ tầng, thúc đẩy thương mại - đầu tư, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao. Qua đó, Mỹ không chỉ khẳng định cam kết lâu dài với Tiểu vùng sông Mekong, mà còn tận dụng các cơ chế hợp tác để tạo dựng ảnh hưởng chiến lược, từng bước định hình luật chơi và thu hẹp dư địa ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.

Có thể thấy, các sáng kiến và cơ chế trên của Mỹ và Trung Quốc được tính toán kỹ lưỡng trong tổng thể chiến lược tăng cường ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới. Mỹ và Trung Quốc đã đưa ra những sáng kiến và cơ chế đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể, hình thành các chuỗi sản xuất và cung ứng, bao gồm các tập hợp nhỏ, riêng biệt với những quy trình, quy định và tiêu chuẩn khép kín, nhằm định hình các tiêu chuẩn mới với các đối tác cùng quan điểm và chia sẻ giá trị chung. Động thái này nhằm định hình lại tiến trình khu vực hóa, sắp xếp lại mạng lưới chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu theo hướng gần hơn về địa lý với các thị trường lớn.

Về khoa học - công nghệ, nhận thức được không gian an ninh và phát triển của một quốc gia hiện nay còn phụ thuộc vào chiến lược phát triển công nghệ và hợp tác quốc tế dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa, Mỹ và Trung Quốc xác định lĩnh vực này là mục tiêu và động lực cạnh tranh trong khu vực. Hai nước đặt mục tiêu giành vị thế đi đầu, định vị vai trò trong tiến trình phát triển của các quốc gia trong khu vực. Vị thế thống trị về công nghệ cao đã trở nên quyết liệt hơn, mang tính quyết định ngôi vị trong cạnh tranh chiến lược nước lớn do đây là những yếu tố gắn chặt với an ninh quốc gia, sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị, cũng như vị thế siêu cường toàn cầu. Chính vì vậy, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc trong lĩnh vực này ngày càng thể hiện rõ xu hướng chính trị hóa, an ninh hóa chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, nhất là ở các ngành công nghệ cao, công nghệ nguồn. Từ việc khai thác tài nguyên chiến lược, phát triển vật liệu nền, đến thiết kế vi mạch, sản xuất thiết bị và phân phối sản phẩm..., Mỹ và Trung Quốc đều nỗ lực giành lợi thế thị trường và vị trí trong cạnh tranh chiến lược tại khu vực.

Về phương diện an ninh, không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia chịu tác động đan xen từ thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, trong đó nhiều vấn đề gắn trực tiếp với lợi ích chiến lược của cả Mỹ và Trung Quốc. Đơn cử như, vấn đề Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với Trung Quốc, gắn liền với chiến lược an ninh và phát triển trên không gian biển của nước này, trong khi Mỹ coi đây là khu vực để khẳng định vai trò duy trì trật tự, luật pháp quốc tế, bảo đảm hoạt động tự do hàng hải, trong đó có tự do hoạt động của tàu quân sự Mỹ, bảo vệ lợi ích của các đồng minh và kiềm chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Thông qua việc giải quyết vấn đề Biển Đông, Mỹ và Trung Quốc sử dụng nhiều biện pháp, từ ngoại giao, pháp lý đến hợp tác quốc phòng - an ninh, nhằm lôi kéo, tập hợp lực lượng, nâng cao ảnh hưởng và đạt được các mục tiêu địa - chính trị dài hạn của mình tại khu vực Đông Nam Á, trong đó có không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia.

Cùng với đó, các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh xuyên biên giới, an ninh mạng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước tiếp tục gia tăng, diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến ổn định an ninh, phát triển bền vững của các nước. An ninh phi truyền thống ngày càng trở thành không gian cạnh tranh “chiến lược mềm” giữa các nước lớn. Mỹ và Trung Quốc khai thác mạnh mẽ các vấn đề này thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển, như hợp tác nguồn nước sông Mekong, sáng kiến y tế - môi trường, chuyển đổi số, an ninh mạng… nhằm gia tăng ảnh hưởng, củng cố mạng lưới đối tác.

Tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc đối với không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia

Việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường can dự tại khu vực thông qua các cơ chế hợp tác song phương, đa phương và tiểu đa phương đã có những tác động sâu sắc đến không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia theo cả chiều thuận và chiều nghịch, trong đó các thách thức có xu hướng gia tăng.

Về thuận lợi

Có thể nói, hợp tác và cạnh tranh luôn là hai mặt song hành trong quan hệ quốc tế. Trong quá trình cạnh tranh, các nước lớn sử dụng công cụ “cây gậy và củ cà rốt”, thúc đẩy, tăng cường hợp tác như một phương thức để thu hút, tranh giành ảnh hưởng với các quốc gia trong khu vực. Đây là điều kiện thuận lợi để các nước trong khu vực mở rộng không gian chiến lược, tạo lập vị thế tốt hơn trong tham gia hợp tác đa phương với các nước lớn, để từ đó nâng cao tiếng nói và vai trò trong việc thúc đẩy chương trình nghị sự hợp tác đa phương trong tiểu vùng. Đây cũng là cơ hội để các nước tiểu vùng có thể tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ từ các nước lớn để phục vụ mục tiêu bảo đảm an ninh và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với đó, tăng vị thế “mặc cả” của không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia. Thực tế cho thấy, cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều tận dụng tốt lợi ích kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế, trong đó tranh thủ hiệu quả các nguồn lực phát triển từ sự hỗ trợ của Mỹ và Trung Quốc, phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước.

Về thách thức  

Thứ nhất, thu hẹp không gian chiến lược hợp tác phát triển, dẫn đến nguy cơ phân hóa nội bộ giữa các nước trong tiểu vùng. Việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương do nước lớn dẫn dắt cùng việc triển khai các sáng kiến, dự án kết nối hạ tầng, đầu tư,… theo ưu tiên của từng nước lớn, dẫn tới giảm tính bổ trợ trong liên kết, hợp tác phát triển giữa các nước tiểu vùng, thậm chí có nguy cơ gia tăng tính cạnh tranh lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Các nước tiểu vùng phải đối mặt với việc ứng xử trong quan hệ với nước lớn để vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa hài hòa với lợi ích với hai quốc gia còn lại. Đặc biệt, trong các cơ chế hợp tác đa phương do Mỹ, Trung Quốc dẫn dắt, các nước tiểu vùng có nguy cơ rơi vào tình huống “phân hóa” bởi lợi ích quốc gia thay vì lợi ích tổng thể khu vực. Bởi cạnh tranh nước lớn hạn chế sự lựa chọn chiến lược của các nước vừa và nhỏ, nhất là đối với các nước nhỏ có quan hệ kinh tế hoặc an ninh với các nước lớn chặt chẽ hơn hợp tác giữa các nước trong tiểu vùng với nhau. Ở chiều ngược lại, tham gia hợp tác đa phương tiểu vùng, các nước nhỏ dễ bị rơi vào vòng xoáy thỏa hiệp - cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, từ đó tác động không thuận đến lợi ích quốc gia và môi trường an ninh, kinh tế khu vực khi xảy ra xung đột lợi ích giữa các nước lớn và giữa các nước trong tiểu vùng. Do vậy, không gian chiến lược hợp tác phát triển giữa Việt Nam, Lào và Campuchia có thể bị thu hẹp do vẫn còn sự khác biệt về lợi ích, làm giảm hiệu quả tham gia của từng nước, cũng như trong liên kết khu vực.

Thứ hai, áp lực “chọn bên” đối với các nước trong tiểu vùng trước sự cạnh tranh chiến lược và gia tăng can dự của cả Mỹ và Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam, Lào và Campuchia đều đứng trước thách thức trong việc duy trì cân bằng chiến lược giữa một bên là lợi ích hợp tác kinh tế sâu rộng với Trung Quốc và một bên là lợi thế về khoa học - công nghệ, thương mại trong hợp tác với Mỹ. Trong bối cảnh đó, việc giữ thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn được xem là lựa chọn chiến lược phù hợp đối với các nước vừa và nhỏ nhằm tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, đồng thời bảo đảm độc lập, tự chủ và không để bất kỳ nước lớn nào thiết lập ảnh hưởng độc tôn trong khu vực. Sức ép “chọn bên” vì thế đã trở thành một thách thức trong chính sách đối ngoại của các nước tiểu vùng, nhất là khi cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ - Trung Quốc tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.

Thứ ba, gia tăng tính bất ổn, bất định của không gian chiến lược. Tính chất bất định xuất phát từ việc khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Đông Nam Á nói riêng được các nước lớn nhận định là địa bàn có ý nghĩa địa - chiến lược đặc biệt quan trọng, trong khi cấu trúc khu vực đang định hình. Chưa kể, sự khác biệt trong nhận thức, lợi ích chiến lược, hệ giá trị và phương thức xử lý quan hệ quốc tế giữa các nước lớn làm cho môi trường chiến lược khu vực trở nên phức tạp và khó dự báo hơn. Cạnh tranh giữa các nước lớn không chỉ diễn ra trên lĩnh vực chính trị - an ninh, mà còn trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, công nghệ, chuỗi cung ứng, thiết lập luật chơi trong các thể chế khu vực. Điều này tạo ra thách thức lớn đối với ổn định chiến lược, làm gia tăng nguy cơ rủi ro địa - chính trị, xung đột cục bộ, dẫn tới tình trạng bất ổn, khó lường đối với khu vực. 

Như vậy, dưới tác động của cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Tiểu vùng sông Mekong nói riêng, thách thức đặt ra đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia: Một là, môi trường an ninh, phát triển của ba nước là một trong những mục tiêu chiến lược của các nước lớn, do vậy có thể đặt tiểu vùng vào tình thế bất ổn, chia rẽ; hai là, những tính toán vị kỷ của nước lớn dẫn tới tình thế tiến thoái lưỡng nan về mặt an ninh, làm suy giảm tính tự chủ chiến lược quốc gia, do đó ba nước cần tránh nguy cơ buộc phải “chọn bên” trong cạnh tranh, đối đầu giữa các nước lớn; ba là, trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, ba nước cần kiên định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, loại bỏ nguy cơ bị lệ thuộc vào nước lớn, nguy cơ dần trở thành khu vực “sân sau”, “vùng đệm”, thậm chí nước lớn ngầm thỏa hiệp, đẩy nước nhỏ vào tình thế bị “mắc kẹt”, không tự quyết định được lợi ích quốc gia - dân tộc của mình.

Gợi mở chính sách đối với Việt Nam

Việc bảo đảm an ninh, phát triển trong không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia phụ thuộc vào ý chí, tầm nhìn, hành động của các nhà lãnh đạo ba nước. Trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là xử lý hài hòa khác biệt về lợi ích, triển khai hiệu quả chính sách ngoại giao láng giềng. Trên cơ sở đó, cần xác định rõ một số định hướng sau:

Thứ nhất, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đồng thời thực hiện linh hoạt chính sách “cân bằng động” trong quan hệ với các nước lớn. Việt Nam cần đánh giá, dự báo chính xác, kịp thời cục diện khu vực và thế giới để có những quyết sách ứng phó bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao đa phương, trong đó hợp tác tiểu vùng được xác định là một tầng nấc ưu tiên.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường và lãnh đạo các nền kinh tế APEC tham dự Tuần lễ cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 32 tại Hàn Quốc, ngày 1-11-2025_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, xem xét, cân nhắc cơ hội chủ động tham gia một cách hài hòa, đồng sáng kiến với các nước lớn, trở thành thành viên sáng lập của các cơ chế và cấu trúc hợp tác tiểu vùng, nhất là với các cơ chế tạo thuận lợi cho việc tăng cường lợi ích của Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cần khéo léo tránh bị “mắc kẹt” trong cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Đây là cơ hội để Việt Nam tăng cường đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; nâng cao vai trò, tăng cường vị thế và mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc, đóng góp tích cực cho sự ổn định và phát triển của khu vực.

Thứ ba, tiếp tục ưu tiên, củng cố quan hệ với các nước láng giềng, “phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương… hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em”(2), “không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em… theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau”(3). Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng”(4). Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống với Lào, Campuchia bởi, về mặt an ninh, đây là các quốc gia láng giềng có ý nghĩa trọng yếu về địa - chính trị và chiến lược, là vành đai an ninh quan trọng, tác động trực tiếp đến an ninh, ổn định và sinh tồn quốc gia của Việt Nam. Về phát triển, ổn định quan h với các nước láng giềng là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước, nhất là trong phát triển kinh tế. Về vị thế quốc tế, gìn giữ quan hệ ổn định, tốt đẹp với các nước láng giềng không những là điều kin cho an ninh và phát triển quốc gia, mà còn là nhân tố then chốt, tiền đề cho quốc gia mở rộng quan h đối ngoại, nâng cao uy tín, vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Thứ tư, trên tinh thần xây dựng, hợp tác, quan tâm lợi ích của các bên liên quan, Việt Nam cần kiên trì vận động, đấu tranh, đồng thời có cách xử lý khéo léo, linh hoạt trong các khuôn khổ hợp tác tại khu vực nói chung và tiểu vùng nói riêng. Đây là vấn đề cần được quan tâm thấu đáo bởi lẽ xét về mặt chiến lược, Tiểu vùng sông Mekong có vai trò quan trọng không chỉ đối với an ninh, phát triển bền vững của đất nước, mà còn là khu vực lõi để từ đó phát huy vị thế Việt Nam với tầm nhìn rộng lớn hơn vươn ra châu Á - Thái Bình Dương. Đối với bất kỳ quốc gia nào, sự gắn kết về địa lý và lợi ích an ninh, phát triển trong quan hệ với các nước láng giềng là không thể thay đổi và trong một số trường hợp còn có ý nghĩa đặc biệt. Giữ vững sự ổn định không gian chiến lược chung đồng nghĩa bảo vệ bền vững không gian sinh tồn của quốc gia.

Thứ năm, góp phần giải quyết thách thức từ nội tại ba nước. Thực tế hiện nay, mặc dù ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều có quyết tâm chính trị cao thúc đẩy quan hệ hữu nghị láng giềng, song những hạn chế trong thực lực của mỗi quốc gia như năng lực kinh tế, trình độ khoa học - công nghệ; sự khác nhau trong lợi ích khai thác nguồn nước sông Mekong; những vấn đề biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại,… đang là cản trở đối với việc củng cố, mở rộng không gian chiến lược chung. Do vậy, cần tiếp tục giải quyết các vấn đề nội tại trên; xác định và thể hiện rõ quan điểm về các vấn đề chiến lược sống còn đối với Việt Nam, trong đó có nguyên tắc không để bên thứ ba lợi dụng lãnh thổ làm phương hại tới an ninh và phát triển của Việt Nam.

Thứ sáu, Việt Nam, Lào, Campuchia còn cần thêm các nguồn lực để có thể “tự chủ chiến lược” trước các thách thức từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vì vậy, cần gia tăng nguồn lực để có thể tự chủ trong chiến lược phát triển quốc gia, từ đó có điều kiện tốt hơn trong củng cố quan hệ hữu nghị, truyền thống giữa ba nước, cùng hợp tác, phát triển. Việt Nam cần cân bằng giữa tự do hóa, mở cửa với tự cường; cân bằng giữa hội nhập sâu rộng, toàn diện với tự chủ chiến lược; cân bằng giữa tham gia cuộc chơi chung với nâng cao khả năng chống chịu bên trong. Theo đó, chủ động, đi đầu trong tạo dựng các cơ chế hợp tác song phương và đa phương tiểu vùng trên các lĩnh vực với Lào, Campuchia, như: Kết nối kinh tế, nhất là trong việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội; đẩy mạnh hợp tác quốc phòng - an ninh; triển khai tầm nhìn chiến lược dài hạn và hợp tác giải quyết các vấn đề về cam kết quốc tế trong quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mekong, hướng tới phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển bền vững; hợp tác giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực…

Thứ bảy, trong bối cảnh Campuchia tuyên bố rút khỏi cơ chế hợp tác khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia (năm 2024), Việt Nam cần tiếp tục tham vấn với Lào và Campuchia về việc thúc đẩy hợp tác giữa ba nước sâu rộng, thực chất, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, vì lợi ích của người dân ba nước, vì Cộng đồng ASEAN, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực. Đồng thời, tiếp tục tiếp nối ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Tam giác phát triển CLV trong việc ổn định tình hình chính trị, bảo vệ an ninh, trật tự vùng biên giới của ba nước.

Tựu trung, cạnh tranh địa - chính trị Mỹ - Trung Quốc trong không gian chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra thách thức phức tạp, đan xen đối với an ninh và phát triển của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần phát huy bản lĩnh đối ngoại độc lập, tự chủ, kiên định bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời chủ động, linh hoạt trong ứng xử với các nước lớn. Việc củng cố đoàn kết đặc biệt với Lào, tăng cường quan hệ hữu nghị với Campuchia là nền tảng để Việt Nam giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế quốc tế, đóng góp tích cực vào hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực./.

---------------------

(1) Xem: Nguyễn Vũ Tùng, Nguyễn Hoàng Như Thanh: Lý luận quan hệ quốc tế, Nxb. Lao động - xã hội, Hà Nội, 2017, tr. 64
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 100
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 89
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 163

 

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/1165902/canh-tranh-dia---chinh-tri-my---trung-quoc-trong-khong-gian-chien-luoc-viet-nam---lao---campuchia-va-goi-mo-chinh-sach-doi-voi-viet-nam.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Dã quỳ nhuộm vàng phố núi, Đà Lạt vào mùa đẹp nhất năm
G-Dragon bùng nổ cùng khán giả trong đêm diễn tại Việt Nam
Fan nữ mặc váy cưới đến concert G-Dragon ở Hưng Yên
Mê mẩn vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Mê mẩn vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm