Dâng “Thất trảm sớ” chấn động triều Trần
Trong lịch sử dân tộc, không nhiều bậc sĩ phu dám đặt sự ngay thẳng lên trên sự an ổn của bản thân như Chu Văn An. Sự kiện ông dâng Thất trảm sớ thời Trần Dụ Tông cho thấy sự hội tụ của lương tri, học vấn và tinh thần trách nhiệm của người trí thức.
Theo tư liệu lịch sử, trong những năm vua Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông trị vì, đất nước ở vào thời kỳ thanh bình, chính sự ổn định. Khi vua Hiến Tông ở ngôi được 12 năm thì mất (1329–1341), em là Trần Hạo lên kế vị, tức vua Trần Dụ Tông.
Buổi đầu triều Dụ Tông, chính sự vẫn tạm yên ổn; nhưng từ khi Thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời (1357), tình hình đất nước bắt đầu xuất hiện dấu hiệu suy đốn. Trong triều, bọn gian thần lộng hành, kết bè kéo cánh; vua Trần Dụ Tông thì bỏ bê việc nước. Việt Nam sử lược chép rằng vua “suốt ngày lo rượu chè, chơi bời, xây cung điện, đào hồ, đắp núi, rồi lại cho người giàu vào cung đánh bạc”.
Trước thực trạng đó, Chu Văn An, khi ấy là một vị quan trong triều đã nhiều lần dâng lời can ngăn. Không chỉ nói suông, ông còn can đảm viết Thất trảm sớ, xin chém bảy gian thần làm rối loạn triều chính. Việc dâng tờ sớ này trở thành sự kiện chấn động trong đời Trần, bởi đương thời chỉ những bậc đại thần mới thường làm việc can gián. Tuy nhiên, Thất trảm sớ không được vua Dụ Tông chấp nhận. Chu Văn An liền treo ấn từ quan, rời triều đình, về sống ẩn dật ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu Tiều Ẩn.
Việc dâng Thất trảm sớ của Chu Văn An gây chấn động dư luận bởi theo quy chế lúc bấy giờ, chỉ quan Ngự sử mới được quyền can gián vua. Việc làm ấy cho thấy phẩm chất ngay thẳng, cương trực của Chu Văn An, đó là làm quan phải dám nói điều đúng, phải góp phần chỉnh đốn triều cương, phải hành động vì dân. Một vị quan nhỏ nhưng tận tâm và giữ trọn liêm sỉ còn đáng quý hơn kẻ giữ chức lớn mà không làm được điều gì có ích cho đất nước.
Vị Hiệu trưởng mẫu mực của Quốc Tử Giám
Chu Văn An sinh năm 1292 tại xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là nhà giáo, thầy thuốc và là đại quan dưới triều Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông có tính cương nghị, thẳng thắn, luôn giữ mình trong sạch và không cầu lợi lộc. Suốt cuộc đời, ông dành nhiều thời gian đọc sách, học vấn tinh thông, tiếng tăm lừng lẫy gần xa. Học trò của ông “đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa”, phản ánh uy tín và tài năng sư phạm của ông.
Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Chu Văn An là thầy giỏi nhưng nghiêm khắc, trọng dụng những học trò có năng lực và ghét kẻ cậy giàu ham chơi. Trong số học trò, nhiều người trở thành danh thần, có công giúp nước, điển hình như Phạm Sư Mạnh và Lê Quát, đều là những quan lớn dưới triều Trần. Sinh thời, ông được nhân dân tôn xưng là “Vạn thế sư biểu”, nghĩa là người thầy chuẩn mực muôn đời của dân tộc Việt Nam.
Ở thời Chu Văn An, trường học còn rất ít. Quốc Tử Giám ở kinh đô là trường quốc lập duy nhất, ban đầu chỉ dành cho con vua, con quan, sau mở rộng cho những người tài trong nhân dân theo học. Bên cạnh đó, có các trường tư nhân như Tư Thiện Đường, Toát Trai Đường ở Thiên Trường (Nam Định) dành cho con em tôn thất nhà Trần, hay các trường Yên Tử (Quảng Ninh) và Hương Sơn (Hà Tây cũ) phục vụ riêng cho tăng lữ và nhà chùa. Trước thực trạng này, Chu Văn An mở trường dân lập, dạy học rộng rãi cho nhân dân, góp phần phổ cập học vấn và rèn luyện nhân cách cho nhiều thế hệ.
Bởi trường lớp còn quá ít, phần lớn con em nhân dân không được học hành, Chu Văn An đã mở trường Huỳnh Cung tại quê nhà (nay là Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội). Tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp – ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam: “Trường có lớp, thư viện… Học trò đến học ở trường Huỳnh Cung khá đông, lên tới 3.000 học sinh”.
Trong thời gian giảng dạy tại Huỳnh Cung, Chu Văn An chuyên truyền đạt kinh điển Nho giáo. Mục tiêu cao nhất của ông là “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy học trò sự cung kính, trung hậu và văn nhã. Học trò tại Huỳnh Cung chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng và phong cách của thầy.
Chu Văn An cho rằng con người sinh ra đều thiện và bình đẳng về khả năng tiếp nhận giáo dục. Nhờ sự dạy dỗ của gia đình, xã hội và nhà trường, trí tuệ và nhân cách mới hình thành và khác biệt. Vì thế, ai cũng có quyền được học, và trường học phải mở cửa đón nhận mọi người. Người thầy phải giúp học trò phát huy điểm mạnh, tránh điều xấu, hướng tới điều thiện để hoàn thiện bản thân. Trong dạy học, ông đề cao việc lấy học trò làm trung tâm; khi truyền đạt kiến thức phải phù hợp với khả năng và đặc điểm từng người, khuyến khích tư duy độc lập, sự chủ động và sáng tạo của học trò.
Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của ông đỗ Thái học sinh, tương đương học vị tiến sĩ, tạo tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Nhờ vậy, uy tín của Chu Văn An và trường Huỳnh Cung lan rộng khắp cả nước. Trường Huỳnh Cung trở thành một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam, góp phần mở đường cho sự hình thành và phát triển các trường dân lập, tạo điều kiện cho đông đảo con em nhân dân được học hành.
Sau khi danh tiếng Chu Văn An và trường Huỳnh Cung lan rộng, ông được vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, trông coi việc học cho cả nước.
Người thầy mẫu mực của muôn đời
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi dâng Thất trảm sớ nhưng không được vua hồi đáp, Chu Văn An rời kinh thành về Chí Linh (Hải Dương), mở trường và tiếp tục sự nghiệp giáo dục. Dù vùng đất này khi ấy còn thâm u, hẻo lánh, học trò tìm đến với thầy vẫn rất đông. Tại đây, ông lấy hiệu Tiều Ẩn, ngày ngày chuyên tâm dạy học, làm thơ và giữ một đời thanh sạch.
Sự xuất hiện của Chu Văn An đã thổi bùng phong trào học tập ở Chí Linh. Nhiều người nơi đây trở thành bậc hiền tài, nổi bật nhất là bà Nguyễn Thị Duệ – nữ tiến sĩ duy nhất của Việt Nam thời phong kiến, đỗ đạt dưới triều Mạc. Bên cạnh đó còn có Nguyễn Phong, 14 tuổi đỗ Hương cống cùng cha, 26 tuổi đỗ tiến sĩ.
Trong những năm dạy học ở vùng núi Chí Linh, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y thuật và chữa bệnh giúp dân. Học trò cũ dù làm quan xa vẫn thường trở về thăm thầy. Đại Việt sử ký chép rằng mỗi khi họ có điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc chỉ dạy, khiến người người càng thêm kính trọng.
Cuối đời, Chu Văn An sống thanh bần nhưng an nhiên giữa lớp học và văn chương. Triều đình nhiều lần mời ông trở lại giúp nước, song ông đều từ chối, giữ trọn khí tiết của bậc sĩ phu. Tuy nhiên, tấm lòng ông vẫn hướng về triều Trần. Khi vua Trần Nghệ Tông dẹp yên loạn Dương Nhật Lễ và khôi phục ngôi vị, Chu Văn An dù tuổi cao vẫn vào triều dâng lời chúc mừng – một nghĩa cử khiến nhân dân và sĩ phu đương thời càng thêm quý trọng.
Trở về Chí Linh, tuổi đã gần 80, ông lâm bệnh nặng và qua đời vào tháng 11 năm 1370. được vua Trần tôn vinh là “Vạn thế sư biểu” (Người thầy mẫu mực của muôn đời) và cho đặt tượng thờ trong Văn Miếu cùng nơi thờ đức Khổng Tử, một sự ghi nhận xứng đáng đối với người thầy mẫu mực của muôn đời.
Năm 2019, Chu Văn An được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Tính đến hiện tại, ông là 1 trong 6 nhân tài Việt Nam được UNESCO vinh danh.
Nguồn: https://khoahocdoisong.vn/chu-van-an-va-su-dung-cam-dang-that-tram-so-chong-lai-gian-than-post2149069543.html






Bình luận (0)