Yêu cầu cấp thiết phát triển nhân lực số
TS Nguyễn Hữu Thọ - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kiên Giang nhận định, trong bối cảnh kinh tế số và xã hội số trở thành xu thế phát triển chủ đạo toàn cầu, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Do đó, việc sớm xây dựng, triển khai Chương trình phát triển nhân lực số là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Tính cấp thiết của Chương trình thể hiện qua 5 nội dung cốt lõi.
Thứ nhất là đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Kinh tế số dự kiến đóng góp tỷ trọng ngày càng cao vào GDP quốc gia. Nếu không phát triển nhân lực số sẽ khiến nền kinh tế bị tụt hậu, không tận dụng được cơ hội tăng trưởng mới.
Thứ hai là khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng số. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân sự công nghệ cao. Nếu không chú trọng đào tạo lại và nâng cao kỹ năng, lực lượng lao động Việt Nam sẽ đối mặt nguy cơ mất việc ngay trên sân nhà.
Thứ ba là bảo đảm chuyển đổi số quốc gia diễn ra toàn diện. Thành công của chuyển đổi số không chỉ đến từ công nghệ, mà cốt lõi nằm ở con người. Nhân lực số là điều kiện then chốt của quá trình phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Thứ tư là thích ứng với sự biến động nhanh chóng của thị trường lao động. Sự phát triển của tự động hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) đang thay đổi cấu trúc nghề nghiệp toàn cầu. Chương trình nhân lực số sẽ giúp người lao động duy trì năng lực cạnh tranh trước biến động thị trường.
Cuối cùng, việc xây dựng, triển khai Chương trình phát triển nhân lực số sẽ tạo lợi thế cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Nguồn nhân lực số chất lượng cao là “nam châm” thu hút đầu tư, đặc biệt từ các tập đoàn công nghệ hàng đầu...
TS Hoàng Văn Thành - Trưởng Bộ môn Luật Kinh tế, Khoa Luật (Học viện Ngân hàng) nhấn mạnh, chủ trương xây dựng và triển khai Chương trình phát triển nguồn nhân lực số nhằm trang bị kỹ năng số toàn diện cho người lao động có ý nghĩa như cấu phần hạ tầng mềm của tăng trưởng.
Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số, Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số hình thành khuôn khổ thể chế nhất quán để chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ dựa vào vốn và lao động giá rẻ sang dựa vào tri thức, dữ liệu, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cụ thể hóa bằng công cụ quản trị
Từ thực tế, TS Hoàng Văn Thành đưa ra một số đề xuất. Thứ nhất, cần ban hành Khung kỹ năng số quốc gia hai tầng tương thích quốc tế để khắc phục tình trạng mỗi nơi một chuẩn và khó đối sánh kết quả đào tạo.
Thứ hai, khung kỹ năng cần được vận hành bằng hệ sinh thái vi chứng chỉ có kiểm định chất lượng độc lập, công bố công khai danh mục mô-đun quốc gia, ma trận đối sánh mô-đun - nghề - cấp độ và lịch thi cấp chứng chỉ định kỳ. Nhờ đó, người lao động có thể học các mô-đun 4 - 12 tuần gắn trực tiếp với tiêu chuẩn năng lực và tín chỉ tích lũy; còn doanh nghiệp có quy chuẩn chung để tuyển dụng và đánh giá năng lực theo chuẩn nghề quốc tế mà không phải thiết kế lại từ đầu.
Thứ ba, trên phương diện tài chính, nên thí điểm cơ chế đồng chi trả theo mô hình Skills Development Levy - Skills Development Fund của Singapore. Theo đó, nhà tuyển dụng nộp khoản đóng góp nhỏ theo quỹ lương theo quy định của Luật SDL 1979 (Skills Development Levy Act 1979).
Số tiền này được nộp qua cơ quan CPF cho SkillsFuture Singapore và trở thành nguồn đồng tài trợ cho các khóa học đạt chuẩn, với công thức tính hiện hành 0,25% tiền lương tháng, tối thiểu 2 đô la Singapore và tối đa 11,25 đô la Singapore mỗi lao động. Cách thiết kế này biến đào tạo thành quyết định kinh doanh có hỗ trợ tài chính chứ không phải gánh nặng chi phí, đồng thời tạo nguồn bền vững cho thị trường đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng.
Thứ tư, để nối đào tạo với việc làm một cách thực chất, nên triển khai hợp phần place-and-train theo kinh nghiệm TechSkills Accelerator của IMDA Singapore. Trong đó, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp đồng thiết kế học phần - tiêu chí đầu ra; tuyển học viên có tiềm năng, tổ chức đào tạo tại chỗ gắn với dự án thực; đánh giá theo năng lực thực thi và chia sẻ chi phí theo kết quả, tập trung trước vào các vai trò dữ liệu, AI, an ninh mạng, vận hành nền tảng và sản phẩm số nơi nhu cầu hiện hữu. Đây là mô hình đã chứng minh khả năng dịch chuyển tuyển dụng từ bằng cấp sang kỹ năng và rút ngắn thời gian đưa người học vào vị trí việc làm.
Thứ năm, coi an toàn dữ liệu là kỹ năng bắt buộc nơi làm việc bằng cách lồng ghép các mô-đun tối thiểu về quyền và nghĩa vụ dữ liệu, phân loại dữ liệu cá nhân, xử lý dữ liệu nhạy cảm, đánh giá tác động xử lý dữ liệu và ứng phó sự cố vào tầng phổ quát. Ở tầng chuyên sâu, bắt buộc các học phần về quản trị dữ liệu theo vòng đời, bảo mật và quyền riêng tư phù hợp Nghị định 13/2023/NĐ-CP kèm theo ngân hàng tình huống để người học luyện năng lực xử lý trong bối cảnh thật.
Thứ sáu, thiết lập cơ chế điều phối liên bộ do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính cùng các hiệp hội nghề nghiệp. Công bố bộ chỉ số kết quả theo quý, theo năm để xã hội giám sát và để ngân sách gắn với hiệu quả. Tận dụng mạng lưới Tổ công nghệ số cộng đồng làm kênh cuối cùng đưa học liệu và kỳ thi trực tuyến đến tận thôn bản và khu công nghiệp.
TS Hoàng Văn Thành cho rằng, nếu được thiết kế theo các trục trên, Chương trình phát triển nguồn nhân lực số sẽ không chỉ đúng hướng, mà còn được cụ thể hóa bằng những công cụ quản trị có thật, đo được và so sánh được; tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư vào con người, bảo đảm người lao động có kỹ năng số an toàn, hiệu quả, chuyển hóa mục tiêu kinh tế số và xã hội số thành năng suất, thu nhập, cơ hội nghề nghiệp cụ thể trong giai đoạn tới.
Giải pháp toàn diện phát triển nguồn nhân lực
Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kiên Giang đề xuất các nhóm giải pháp trọng tâm, mang tính hệ thống nhằm phát triển nguồn nhân lực số một cách toàn diện.
Trước tiên là hoàn thiện cơ chế, chính sách. Tập trung ban hành Khung kỹ năng số quốc gia theo tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo kỹ năng số cho người lao động.
Thêm một giải pháp đặc biệt quan trọng là đổi mới hệ thống giáo dục. Xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng số bắt buộc từ phổ thông đến sau đại học; mở rộng đào tạo các ngành cốt lõi như AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng; tăng cường gắn kết giữa nhà trường, doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu ứng dụng.
TS Nguyễn Hữu Thọ cũng đề xuất việc phát triển kỹ năng cho lao động hiện hữu. Tổ chức các chương trình nâng cao nhận thức và kỹ năng chuyển đổi số cho người lao động ở mọi lĩnh vực; triển khai đào tạo đặc thù theo nhóm nghề để đáp ứng nhu cầu tại chỗ.
Mặt khác, tăng cường hợp tác và thu hút doanh nghiệp công nghệ. Khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn tham gia đào tạo nhân lực; đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc tế (như UNESCO, ITU...) để chuyển giao chương trình, chứng chỉ và tiêu chuẩn kỹ năng số.
Bên cạnh đó, quan tâm đầu tư hạ tầng và nền tảng học tập số; bằng cách phát triển nền tảng dữ liệu học tập quốc gia, hồ sơ năng lực số của người lao động; xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến dùng chung; đồng thời phổ cập kết nối Internet tốc độ cao đến mọi vùng, miền.
Sau cùng, TS Nguyễn Hữu Thọ nhấn mạnh cần đánh giá hiệu quả và thúc đẩy thị trường lao động số. Xây dựng cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực số theo ngành, vùng; công nhận và liên thông chứng chỉ kỹ năng số trong thị trường lao động; khuyến khích khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ số...
Dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, một nội dung trọng tâm được đề cập là “Xây dựng, triển khai Chương trình phát triển nguồn nhân lực số nhằm trang bị kỹ năng số toàn diện cho người lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số và xã hội số”.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/giai-phap-dong-bo-phat-trien-nguon-nhan-luc-so-post756172.html






Bình luận (0)