Nghị quyết số 06-NQ/TU được ban hành ngày 17/5/2021 - một trong những Nghị quyết đầu tiên của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, cho thấy sự quan tâm đặc biệt của tỉnh đối với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết đã được quán triệt sâu rộng đến toàn hệ thống chính trị, tổ chức thành chương trình hành động và có lộ trình thực hiện rõ ràng.
Giai đoạn 2021-2025, Quảng Ninh đã huy động hơn 120.000 tỷ đồng để triển khai các chương trình phát triển vùng khó, trong đó vốn ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 16%, còn lại là xã hội hóa và tín dụng chính sách. Doanh số cho vay phục vụ phát triển NN-NT đạt trên 97,4 nghìn tỷ đồng. Các chương trình hỗ trợ sản xuất, chuyển giao KHKT, đào tạo nghề được triển khai linh hoạt phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
Gia đình anh Đặng Quay Chính, sinh sống ở xã Đài Xuyên của huyện Vân Đồn (cũ), trước đây một trong những hộ nghèo của địa phương. Nhờ các chính sách, nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh dành cho vùng đồng bào DTTS, gia đình anh Chính đã được hỗ trợ nguồn vốn vay đầu tư phát triển mô hình chăn nuôi bò sinh sản, gà thịt và trồng rừng... Từ đó, gia đình anh đã tập trung phát triển kinh tế, xây dựng lại nhà ở khang trang, đời sống dần ổn định hơn. Anh Chính cho biết: Từ mô hình chăn nuôi, trồng rừng, trừ chi phí gia đình tôi thu được khoảng 50 triệu đồng/tháng. Kinh tế giờ đã ổn định hơn, con cái có điều kiện học hành, cuộc sống cũng đỡ vất vả. Quan trọng là mình đã có hướng đi bền vững, không còn phải lo cái ăn, cái mặc như trước nữa.”
Câu chuyện của gia đình anh Đặng Quay Chính không phải là trường hợp hiếm ở vùng đồng bào DTTS Quảng Ninh. Những năm qua, nhờ triển khai hiệu quả Nghị quyết số 06, nhiều người dân ở các vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đã có điều kiện vươn lên, từng bước thoát nghèo bền vững. Cùng với chính sách hỗ trợ vốn vay, tỉnh còn đẩy mạnh các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, tập huấn kỹ thuật, chuyển giao khoa học công nghệ, giúp người dân thay đổi tư duy sản xuất. Nhiều mô hình sinh kế mới như trồng cây dược liệu, phát triển rừng gỗ lớn, làm du lịch cộng đồng… đang phát huy hiệu quả rõ rệt, mang lại thu nhập cao cho người dân.
Song song với phát triển kinh tế, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng được quan tâm. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Dao, Sán Chỉ, Tày, Sán Dìu… được khôi phục, gắn với phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm. Các lễ hội, làn điệu dân ca, nghề thủ công truyền thống được gìn giữ và lan tỏa, góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng đồng bào DTTS.
Đặc biệt, có thể kể đến việc tỉnh đã thí điểm xây dựng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng DTTS gắn với phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2023-2025 gồm: làng người Tày ở Bản Cáu xã Lục Hồn, làng người Sán Chỉ ở Lục Ngù xã Bình Liêu; làng người Dao Thanh Y ở Pò Hèn, xã Hải Sơn và làng người Sán Dìu ở Vòng Tre, Đặc khu Vân Đồn.
Tại Bản Cáu (xã Lục Hồn) người Tày thường xuyên chỉnh trang nhà cửa đón khách tham quan, duy trì các phong tục truyền thống, khôi phục hát Then – đàn Tính và biên soạn cuốn “Học tiếng Tày Bình Liêu” nhằm bảo tồn tiếng nói dân tộc. Ở Lục Ngù (xã Bình Liêu), người Sán Chỉ gìn giữ nhà cổ, mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt hằng ngày, duy trì các cơ sở may dân tộc và tổ chức Hội Soóng Cọ định kỳ, tạo dấu ấn đặc sắc cho du lịch cộng đồng…
Hoạt động bảo tồn, phát huy văn hóa Sán Dìu ở thôn Vòng Tre (Đặc khu Vân Đồn) được duy trì sôi nổi với câu lạc bộ Soọng Cô, các trò chơi dân gian, ẩm thực truyền thống… Cán bộ, công chức người Sán Dìu còn mặc trang phục dân tộc vào thứ hai hằng tuần, góp phần lan tỏa bản sắc trong đời sống công vụ.
Tại xã Hải Sơn, khu di tích lịch sử Pò Hèn được xếp hạng cấp Quốc gia, đón hàng trăm nghìn lượt du khách mỗi năm; hoạt động trải nghiệm văn hóa Dao Thanh Y, lớp dạy tiếng Dao và chợ phiên Pò Hèn tổ chức định kỳ đã tạo điểm nhấn cho du lịch cộng đồng gắn với gìn giữ văn hóa truyền thống.
Từ những mô hình cụ thể đó có thể thấy việc triển khai Nghị quyết 06 không chỉ mang lại hạ tầng khang trang hay sinh kế ổn định, mà còn thu hẹp khoảng cách vùng miền trên nhiều phương diện từ kinh tế, xã hội đến đời sống tinh thần. Người dân vùng cao không chỉ được hỗ trợ mà còn được trao cơ hội phát triển bình đẳng, được tham gia, làm chủ các mô hình kinh tế tại chính quê hương mình. Những con đường mới mở, những bản làng sáng đèn, phiên chợ vùng cao hay điểm du lịch cộng đồng chính là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển hài hòa, bao trùm.
Thực tiễn triển khai Nghị quyết 06 đã cho thấy hướng đi đúng và cách làm bài bản của Quảng Ninh trong phát triển vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Khoảng cách phát triển từng bước được thu hẹp, đời sống người dân ngày càng nâng cao, diện mạo nông thôn mới khởi sắc. Từ những bản làng xa xôi đến vùng đô thị trung tâm, tinh thần đoàn kết và khát vọng vươn lên đang lan tỏa mạnh mẽ, khẳng định vị thế của một Quảng Ninh phát triển toàn diện, bền vững và giàu bản sắc nơi địa đầu Tổ quốc.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/nghi-quyet-06-thu-hep-khoang-cach-vung-mien-3382570.html






Bình luận (0)