Giải bài toán lớn về đội ngũ giảng viên
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng số giảng viên đại học tính đến năm 2024 vào khoảng 91.300 người. Trong đó, số giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 30.000 người, chiếm 33% tổng số giảng viên. Phần còn lại chủ yếu là thạc sĩ (khoảng 53.400 người, gần 58%) và một số ít trình độ đại học. Mỗi năm Việt Nam có khoảng 600 giáo sư và phó giáo sư mới. Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư tập trung ở các đại học lớn, nơi có nhiều ngành đào tạo sau đại học.
Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt ít nhất 40%. Từ năm 2030 trở đi, các đại học có đào tạo tiến sĩ phải đạt tối thiểu 50% giảng viên là tiến sĩ. Đây là thách thức không nhỏ, nhất là với các trường địa phương hoặc mới nâng cấp do quá trình đào tạo tiến sĩ mất 5-7 năm và tình trạng chảy máu chất xám (một số tiến sĩ rời trường hoặc về hưu).
Để đạt mục tiêu tăng tỷ lệ tiến sĩ, các cơ sở giáo dục đại học đang triển khai nhiều giải pháp thu hút nhân tài trong và ngoài nước, hỗ trợ giảng viên học lên tiến sĩ, cải thiện chế độ đãi ngộ. Nhiều tiến sĩ tốt nghiệp nước ngoài đã về làm việc tại các trường lớn.
Chẳng hạn như, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chương trình “VNU 350” thu hút 350 nhà khoa học trẻ xuất sắc, với các chính sách như: Cấp kinh phí 200 triệu đồng cho đề tài năm đầu, 1 tỷ đồng đề tài năm thứ 3, hỗ trợ phòng thí nghiệm tối đa 10 tỷ đồng ở năm thứ 4, để họ phát triển sự nghiệp tại trường. Những chính sách mạnh dạn này nhằm “giữ chân và thu hút đội ngũ giảng viên trình độ cao”, bởi họ không chỉ giảng dạy mà còn dẫn dắt nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế và chuyển giao tri thức cho xã hội. Tuy nhiên, ở các trường nhỏ hơn, việc tuyển dụng tiến sĩ giỏi vẫn khó khăn do hạn chế về môi trường nghiên cứu và thu nhập.
Ông Vũ Minh Đức, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo) khẳng định, trong hệ thống giáo dục đại học, giảng viên giữ vị trí trung tâm. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn là người hướng dẫn, cố vấn, truyền cảm hứng cho sinh viên; đồng thời là nhà nghiên cứu khoa học, tạo ra tri thức mới và đóng vai trò cầu nối giữa nhà trường với xã hội.
Những năm qua, đội ngũ giảng viên cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng bước hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới giáo dục đại học và xu thế toàn cầu hóa, đội ngũ giảng viên vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học, chế độ đãi ngộ đối với giảng viên chưa đủ hấp dẫn.
Trong Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh yêu cầu có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo; xây dựng cơ chế huy động nhân lực chất lượng cao ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện tại các cơ sở giáo dục; khuyến khích các chuyên gia, nhà khoa học chủ trì hoạt động nghiên cứu; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.
Ông Vũ Minh Đức chia sẻ, để cụ thể hóa các mục tiêu trong Nghị quyết, thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tham mưu cho cấp có thẩm quyền điều chỉnh các chính sách ưu đãi, đặc thù để phát triển đội ngũ giảng viên đại học.
Về chính sách tiền lương và phụ cấp ưu đãi đối với giảng viên đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Nghị định về chính sách tiền lương đối với nhà giáo, trong đó lương nhà giáo có hệ số đặc thù cao hơn so với các ngành nghề khác; hướng tới trả lương theo vị trí việc làm, hiệu quả công việc, đặt nhà giáo vào đúng vai trò, vị trí để chi trả lương và có chính sách phù hợp hơn.
Về phụ cấp ưu đãi nghề, Bộ cũng đề xuất có sự điều chỉnh tăng thêm ở mức phù hợp đối với giảng viên đại học. Một số chính sách đãi ngộ, hỗ trợ, thu hút tốt hơn đối với nhà giáo như chế độ trợ cấp theo tính chất công việc, theo vùng; chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng; chế độ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe định kỳ, chăm sóc sức khỏe nghề nghiệp được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Nhà giáo.
Đối với chính sách tuyển dụng, thu hút người giỏi trở thành nhà giáo, nhằm cụ thể hóa Luật Nhà giáo, các quy định sẽ tăng quyền tự chủ động cho cơ sở giáo dục đại học trong công tác tuyển dụng nhà giáo; quy định về giảng viên đồng cơ hữu cho những người giỏi đang công tác tại các đơn vị sự nghiệp công lập; quy định về cơ chế hợp tác “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp”; xây dựng Đề án thu hút giảng viên giỏi là người nước ngoài, tháo gỡ rào cản hành chính, đơn giản hóa thủ tục mời chuyên gia quốc tế, giáo sư, trí thức Việt kiều về nước làm việc, cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận tài trợ, viện trợ quốc tế dành cho nghiên cứu và đào tạo.
Nghiên cứu khoa học cần chuyển từ “lượng” sang “chất”
Đánh giá về hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học những năm qua, ông Phạm Quang Hưng, Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết: Số bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng nhanh 12-15%/năm. Giai đoạn 2018-2022, Việt Nam có 76.672 bài báo Scopus, riêng từ năm 2020 trở đi, mỗi năm đều trên 18.000 bài. Năm 2022, tổng số bài báo quốc tế của Việt Nam đạt khoảng 18.500 (Scopus), năm 2023 tăng gần chạm mốc 20.000 bài/năm, năm 2024 đạt trên 22.000 bài.
Nhờ cú hích đó, tỷ lệ công bố quốc tế của Việt Nam tuy còn khiêm tốn so với các cường quốc (chỉ khoảng 1,8% so với Trung Quốc, gần 2,7% so với Mỹ năm 2023) nhưng đã tăng gấp đôi so với năm 2018. Phần lớn công bố quốc tế của nước ta xuất phát từ hệ thống giáo dục đại học, đóng góp khoảng 70% số bài trên WoS và 90% trên Scopus của cả nước. Các công bố quốc tế của Việt Nam trải rộng trên 27 chuyên ngành thuộc 4 lĩnh vực chính (Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật - Công nghệ, Khoa học đời sống - Y dược, Khoa học Xã hội).
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện vươn lên dẫn đầu với hơn 3.000 bài báo quốc tế năm 2024, đây là lần đầu tiên một đại học Việt Nam vượt mốc 3.000 bài/năm, tăng 25% so với năm 2023. Tiếp đến là Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Quốc gia Hà Nội, gần đây, mỗi trường có khoảng 1.500-1.600 bài báo quốc tế/năm. Bên cạnh đó, các trường đại học ngoài công lập định hướng nghiên cứu cũng ghi dấu ấn, cho thấy sự vươn lên mạnh mẽ của khối tư thục (Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Phenikaa, Đại học Duy Tân… mỗi năm có vài trăm bài báo quốc tế).
Tuy nhiên, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tốc độ tăng công bố quốc tế đang chậm lại, đòi hỏi các trường phải chuyển từ “lượng” sang “chất”. Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn hạn chế, nhiều sản phẩm từ đề tài Nhà nước chưa đưa ra thị trường do vướng quy định và thiếu doanh nghiệp tiếp nhận. Đặc biệt, khoảng cách về năng lực nghiên cứu giữa các trường rất lớn, chỉ một số ít trường tốp đầu đạt tầm khu vực, trong khi nhiều trường khác, số lượng công bố ít, chưa hình thành được nhóm nghiên cứu mạnh. Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vẫn là “điểm nghẽn” khi nguồn thu từ hoạt động này tại đa số trường rất thấp.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về công bố bài báo cũng chỉ đạt doanh thu 241,2 tỷ đồng từ dịch vụ khoa học công nghệ (tính đến tháng 11/2024) và con số này còn giảm so với hai năm trước (năm 2022: 319 tỷ đồng, 2023: 288 tỷ đồng). Điều này phần nào phản ánh kết quả hợp tác với doanh nghiệp chưa hiệu quả về mặt thương mại hóa.
Cùng với đó, hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp tại Việt Nam tuy đã hình thành nhưng nhìn chung chưa sâu rộng, chủ yếu tập trung ở một số hình thức truyền thống như thực tập và tuyển dụng sinh viên. Nội dung hợp tác còn hạn hẹp, gần 90% trường cho biết có hợp tác về thực tập cho sinh viên, khoảng 70% doanh nghiệp tài trợ học bổng, ngày hội việc làm cho sinh viên. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia cùng đào tạo hoặc nghiên cứu còn thấp, chỉ khoảng 30%. Điều này cho thấy, hợp tác đại học - doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay phần lớn mang tính hỗ trợ đào tạo nhân lực hơn là liên kết nghiên cứu - đổi mới sáng tạo.
Ông Phạm Quang Hưng cho rằng, để huy động nguồn lực thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các cơ sở dục đại học, cần đổi mới phương thức quản lý, phân bổ ngân sách cho hoạt động khoa học công nghệ đối với các cơ sở giáo dục đại học.
Hiện nay, nhân lực khoa học công nghệ phần lớn nằm ở các cơ sở giáo dục đại học, tuy nhiên kinh phí nghiên cứu cấp cho các trường quá thấp so với nhu cầu thực tế. Do vậy, cần căn cứ tiềm lực khoa học công nghệ để phân bổ kinh phí nghiên cứu cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của nhà nước theo các lĩnh vực ưu tiên, trong đó thúc đẩy nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu tiềm năng, ươm tạo công nghệ; đầu tư cho các ngành công nghiệp nền tảng, lĩnh vực mũi nhọn; đầu tư xây dựng và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo...
Ông Phạm Quang Hưng cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh tự chủ đại học, giải pháp đột phá nhất để huy động nguồn lực thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục đại học chính là cơ chế thúc đẩy đa dạng nguồn thu cho giáo dục đại học, phát huy sức mạnh từ các nguồn kinh phí hợp tác với doanh nghiệp, nguồn kinh phí huy động từ xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, ban hành cơ chế, chính sách và hỗ trợ các nguồn lực cần thiết cho hoạt động hợp tác giữa Nhà nước, Nhà trường và doanh nghiệp; bảo đảm bố trí ngân sách từ nguồn chi sự nghiệp khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, cũng như các chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ các hoạt động hợp tác; đầu tư cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm, trung tâm đổi mới sáng tạo cho các hoạt động hợp tác; ưu tiên cấp vốn mồi và đồng tài trợ cho dự án hợp tác với doanh nghiệp thuộc Danh mục công nghệ chiến lược. Nhà nước cũng cần lựa chọn một số cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp có tiềm năng để triển khai thí điểm và nhân rộng các mô hình hợp tác hiệu quả.
Nguồn: https://baotintuc.vn/ban-tron-giao-duc/phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-yeu-to-then-chot-nang-tam-dai-hoc-viet-nam-20250923121626940.htm
Bình luận (0)