Đó là một trong những nội dung được quan tâm khi Quốc hội thảo luận, đóng góp ý kiến vào văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Đại biểu Nguyễn Duy Minh (Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng) cho rằng dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã thể hiện rõ tư duy đổi mới toàn diện, hiện đại, nhất là việc bổ sung và phát triển các hệ thống quan điểm về mô hình phát triển đất nước theo hướng tăng trưởng nhanh, bền vững, bao trùm, dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Vị đại biểu ghi nhận việc lần đầu tiên vấn đề bảo vệ môi trường trong văn kiện được đặt ngang hàng với phát triển kinh tế - xã hội, trở thành nhiệm vụ trung tâm.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Duy Minh (Ảnh: Hồng Phong).
“Đó là một bước phát triển lý luận rất quan trọng, cho thấy Đảng không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng của kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất lượng và tính bền vững của sự phát triển”, ông Minh nhận định.
Theo ông, phát triển bền vững không làm chậm tăng trưởng, mà là điều kiện để tăng trưởng được duy trì ổn định, lâu dài, có trách nhiệm với nhân dân và thiên nhiên.
Dự thảo Báo cáo chính trị lần này cũng tiếp tục khẳng định yêu cầu nhận thức và xử lý hài hòa, hiệu quả các mối quan hệ lớn, và nội dung vị đại biểu TP Đà Nẵng góp ý cũng liên quan mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Trong 40 năm qua, ông Minh cho rằng đất nước đã đạt nhiều thành tựu to lớn như tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc nhóm cao của thế giới, đời sống nhân dân được cải thiện, quy mô kinh tế liên tục mở rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn chỉ ra rằng nếu tăng trưởng không đi đôi với bền vững, thành quả đạt được có thể bị triệt tiêu bởi hệ lụy môi trường và xã hội. “Những ngày vừa qua, tình hình mưa bão diễn ra, ngành thủy điện đang là một trong những minh chứng rất điển hình cho mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển bền vững”, ông Minh nói.
Vị đại biểu dẫn thống kê cả nước có khoảng 400 nhà máy thủy điện với công suất hơn 23.000MW, chiếm khoảng 26% đến 28% sản lượng điện quốc gia và nhấn mạnh thủy điện đang đóng góp quan trọng cho tăng trưởng, góp phần lớn vào GDP cũng như thu ngân sách.
“Các nhà máy thủy điện lớn như Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình đóng góp hơn 20.000 tỷ đồng cho ngân sách. Nguồn lực này góp phần phát triển hạ tầng, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi và củng cố an ninh năng lượng quốc gia”, ông Minh nêu quan điểm.
Dù vậy, ông cho rằng trong quá trình phát triển, mặt trái của tăng trưởng thiếu bền vững đã bộc lộ rõ, hàng trăm công trình thủy điện làm thay đổi dòng chảy tự nhiên, gây xói lở, bồi lắng lòng hồ, mất rừng đầu nguồn, suy giảm đa dạng sinh học.
Khu vực chùa Cầu ở Hội An vừa qua chìm trong nước lũ (Ảnh: Hoài Sơn).
Khi xả lũ, nhiều nhà máy gây ngập úng, thiệt hại hoa màu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản và đời sống của người dân vùng hạ du. Nhiều khu tái định cư chưa có sinh kế ổn định, mất rừng và làm gia tăng thêm thiên tai, lũ ống, lũ quét.
“Những chi phí môi trường và xã hội này không được hạch toán vào GDP, nhưng thực tế đã ăn mòn lợi ích của tăng trưởng. Bài học ấy cho thấy tăng trưởng nếu không tính đến các giới hạn sinh thái và công bằng xã hội thì không thể bền vững”, theo lời đại biểu Nguyễn Duy Minh.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, đại biểu TP Đà Nẵng kiến nghị nhiều giải pháp và góp ý lộ trình trong ngắn hạn và dài hạn để chuyển đổi năng lượng, phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, trong ngắn hạn, phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy trình vận hành thủy điện theo hướng minh bạch, có trách nhiệm, bắt buộc công khai dữ liệu xả lũ, cảnh báo sớm cho hạ du, đảm bảo dòng chảy sinh thái tối thiểu và trích một phần doanh thu để phục hồi rừng, bồi hoàn thiệt hại, phát triển sinh kế cho người dân của vùng hạ du.
Về dài hạn, theo ông Minh, phải quan tâm đến chuyển đổi năng lượng, giảm dần tỷ trọng thủy điện truyền thống, phát triển mạnh điện gió, điện mặt trời, điện tích năng, điện khí và năng lượng sinh khối và đầu tư hạ tầng lưới điện thông minh, xây dựng hệ thống lưu trữ năng lượng để đảm bảo cung ứng ổn định và giảm thiểu rủi ro do thiên tai và hạn hán.
Tiếp theo, phải xây dựng cơ chế tài chính xanh, chuyển đổi công bằng, áp dụng thuế carbon, tín chỉ xanh, trái phiếu năng lượng sạch và huy động sự tham gia của khu vực tư nhân để đầu tư công nghệ sạch. Đồng thời, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động ở khu vực chịu sự tác động, đảm bảo công bằng và bao trùm.
Cuối cùng, vị đại biểu nhấn mạnh phải phát huy vai trò kiến tạo của nhà nước trong quản lý bằng pháp quyền, dữ liệu và trách nhiệm giải trình, đồng thời thúc đẩy sự tham gia của xã hội, doanh nghiệp và nhân dân trong tiến trình chuyển đổi năng lượng quốc gia.
Đại biểu Quốc hội Quản Minh Cường, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng (Ảnh: Minh Châu).
Đại biểu Quốc hội Quản Minh Cường (Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng) cũng chung nhận định năng lượng là vấn đề quan trọng trong những năm tới và theo ông, đây cũng là bài toán nan giải.
Với mục tiêu phát triển 2 con số, ông Cường dự tính 10 năm nữa, điện năng sẽ tăng gấp đôi.
“Đảng và nhà nước đã có những chính sách hết sức táo bạo và quyết liệt. Chúng ta làm điện hạt nhân, nhưng để thi công điện hạt nhân, nhanh phải 10 năm mới xong một nhà máy, mỗi nhà máy chỉ được khoảng 4.000MW, lớn thì lớn nhưng so với nhu cầu vẫn không đáp ứng được”, Bí thư Cao Bằng nêu quan điểm.
Nguồn: https://dantri.com.vn/thoi-su/tang-truong-khong-ben-vung-thanh-qua-co-the-bi-triet-tieu-20251110144731395.htm






Bình luận (0)