Nhà văn Tô Nhuận Vỹ (thứ hai từ phải sang) trao hiện vật cá nhân cho Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III |
Những trang văn khói lửa chiến trường
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ quê ở làng Mai Vĩnh, xã Vinh Xuân, huyện Phú Vang, nhưng theo ba mẹ tập kết ra Bắc khi còn nhỏ.Cuộc đời của ông là sự dấn thân với hai dòng mạch sáng tạo văn và báo song hành, khiến người đời hết sức trân trọng.
Thời kỳ đầu Tô Nhuận Vỹ viết nhiều thể loại như thơ, ký, ghi chép, nhưng chỉ là những bài báo giàu chất văn học. Từ năm 1969, sau truyện ngắn “Chuyến tuần tra đầu tiên” được giải thưởng Báo Văn nghệ, ông có ba tập truyện ngắn lần lượt ra mắt bạn đọc: “Người sông Hương” (1970), “Em bé làng đảo” (1971), “Làng thức” (1973).
Tác phẩm đã đưa tên tuổi Tô Nhuận Vỹ nổi tiếng lên văn đàn chính là bộ tiểu thuyết 3 tập “Dòng sông phẳng lặng” viết về cuộc chiến đấu của quân dân Huế trong chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bộ tiểu thuyết này được viết lúc ông chưa tới 27 tuổi, gần 2.000 trang, xuất bản năm 1974, tái bản 6 lần và được Hãng phim Truyền hình Việt Nam dựng thành bộ phim cùng tên. Tuy là tiểu thuyết viết về chiến tranh nhưng không ồn ào, không chỉ đầy ắp dữ liệu lịch sử mà còn đi vào từng phận người sâu thẳm với phong cách trầm tĩnh, giàu suy tưởng và nhân văn của Tô Nhuận Vỹ, khác biệt với nhiều tiểu thuyết chiến tranh mang tính sử thi cổ động cùng thời.
Sau ngày đất nước thống nhất, nhà văn Tô Nhuận Vỹ xuất bản thêm một số cuốn tiếu thuyết gây dấu ấn, như: Ngoại ô (1982); Phía ấy là chân trời (1988); Vùng sâu (2012)... Các cuốn tiểu thuyết của ông đã nhận những giải thưởng lớn: Giải thưởng loại A của UBND tỉnh Bình Trị Thiên cho tiểu thuyết “Ngoại ô”; Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô hạng A cho tiểu thuyết “Phía ấy là chân trời”… Năm 2012, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Bản lĩnh văn hóa của một nhà báo
Dẫu đã xuất bản nhiều cuốn tiểu thuyết để đời, ông vẫn nói: “So với nhiều nhà văn khác, số đầu sách của tôi còn quá ít”. Điều đó cũng dễ hiểu bởi các chức danh ông đảm nhiệm: Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương; Tổng Thư ký, Chủ tịch Hội Văn nghệ, Giám đốc Sở Ngoại vụ… đã chi phối hết thời gian của ông. Tạp chí Sông Hương thời ông làm Tổng Biên tập nổi tiếng trong cả nước. Hồi đó Sông Hương chủ trương là “Viết cái cũ phải sâu, cái mới phải mạnh mẽ và nhìn ra thế giới”.
Ông cử phóng viên đi viết những loạt bài gây dư luận lớn, như: “Chuyện ở Thủy Thanh” (tác giả Nguyễn Quang Hà) về sự mất dân chủ ở Thủy Thanh; hoặc đề tài hấp dẫn của cuộc sống, như: “Theo thuyền đánh cá mập” (tác giả Vĩnh Nguyên)… Tạp chí Sông Hương đã tạo nên những “chấn động” báo chí, nó khiến bạn đọc khắp cả nước luôn chờ đón. Tạp chí cứ in ra 5.000 bản là bán hết, có khi phải in nối bản mới đáp ứng nhu cầu bạn đọc. Ông đã làm cho Tạp chí Sông Hương “tỉnh lẻ” trở thành tạp chí tầm cỡ quốc gia.
Hồi đó, ông cũng đã có tầm nhìn xa khi tìm cách để đưa đoàn Ca Huế sang Mỹ biểu diễn trong lúc nước ta đang bị Mỹ cấm vận gắt gao. Ông cũng là người đầu tiên kết nối Huế với Trung tâm William Joiner Center - Đại học Massachusetts, từ đó “kết nối” Hội Nhà văn Việt Nam, tạo tiền đề cho quá trình hội nhập văn học Việt Nam sang Mỹ. Ông cũng vận động để tỉnh Thừa Thiên Huế dành những vị trí trang trọng nhất cho nghệ thuật Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng từ Pháp về với Huế.
Năm 2014, ông xuất bản tập sách “Bản lĩnh văn hóa”, gồm các bài báo và tiểu luận ghi lại một quãng thời gian khá dài con đường mà ông đã đi qua, đưa ra những góc nhìn mới mẻ, nêu bật được nhiều vấn đề nhức nhối trong xã hội, trong văn hóa, kinh tế và chính trị.
Bên cạnh sự nghiệp văn chương, ông cũng đã có sự nghiệp báo chí đóng góp lớn lao cho Huế và Việt Nam, từ sự dấn thân và truyền lửa.
Nghị lực và tình yêu thương
Hai năm trước, ông bất ngờ bị đột qụy, di chuyển rất khó khăn và nói không rõ chữ. Không chấp nhận bệnh tật, ông tập đi và tập nói hàng ngày. Quán cà phê trên đường Nguyễn Trường Tộ là nơi ông tập trò chuyện. Ở tuổi ngoài 80, ông vẫn chơi được với cả người trẻ lẫn người già bởi sự phóng khoáng, cởi mở, trẻ trung hiếm thấy ở tuổi của ông. Nhiều người mừng vui khi ông dần dần diễn đạt ngôn ngữ rõ ràng trở lại.
Trong câu chuyện với tôi, nhà văn Tô Nhuận Vỹ kể nhiều về tình yêu thương của người thân trong gia đình, của bạn bè. Tự nhiên tôi nhớ một nhân vật của ông trong chiến tranh đã nói: “Đến cả tình yêu mà cũng không có nữa thì chúng ta sẽ lấy gì để chống chọi lại với bọn Mỹ?”. Nhận ra ở ông, tư tưởng về tình yêu thương, không chỉ là cách ứng xử trong chiến tranh, mà nó đã là mãi mãi, trong mọi mặt của cuộc đời ông sống, dấn thân và truyền lửa…
Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/to-nhuan-vy-ban-linh-nguoi-truyen-lua-154762.html
Bình luận (0)