Đây là con đường tất yếu nếu Việt Nam muốn thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”, vươn lên nhóm nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Để thực hiện được bước chuyển này, cần một tư duy thể chế mới, trong đó Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” của tri thức - công nghệ - sáng tạo, đồng thời doanh nghiệp trở thành hạt nhân kiến tạo giá trị trong nền kinh tế tri thức.
Hạn chế của mô hình tăng trưởng cũ
Trong hơn ba thập kỷ qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam dựa chủ yếu vào ba động lực truyền thống: Đầu tư công, vốn FDI và lao động giá rẻ. Nhờ đó, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6-7%/năm, trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á.
Tuy nhiên, hiệu quả của vốn đầu tư ngày càng giảm: Hệ số ICOR (vốn đầu tư/GDP tăng thêm) tăng từ 3,5 giai đoạn 2001-2010 lên hơn 6 trong giai đoạn 2020-2024, nghĩa là phải bỏ ra 6 đồng vốn mới tạo được 1 đồng GDP tăng thêm.
Trong khi đó, lợi thế lao động giá rẻ đang suy giảm do chi phí nhân công tăng, cơ cấu dân số vàng dần kết thúc và cạnh tranh khu vực ngày càng khốc liệt. Nếu không đổi mới mô hình phát triển, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ “tụt hậu kép” cả về năng suất và mắc kẹt trong bẫy công nghệ thấp.
Tái định vị mô hình phát triển mới
Để bước sang giai đoạn phát triển mới, Việt Nam cần đặt đổi mới sáng tạo làm động lực trung tâm của tăng trưởng. Đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ, mà là tổng hòa giữa tri thức, quản trị, thể chế và văn hóa sáng tạo. Điều này đòi hỏi ba sự chuyển đổi căn bản như sau:
Chuyển đổi từ “đầu tư vật chất” sang “đầu tư tri thức” - ưu tiên ngân sách cho giáo dục, nghiên cứu, khởi nghiệp, chuyển giao công nghệ.
Chuyển đổi từ “lao động cơ bắp” sang “lao động trí tuệ” - phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng số, tư duy phản biện và tinh thần sáng tạo.
Chuyển đổi từ “mô hình bắt chước” sang “mô hình sáng tạo bản địa” - hình thành các thương hiệu, công nghệ và giải pháp “Make in Vietnam”.
Trong đó, doanh nghiệp tư nhân phải được xem là “trung tâm của hệ sinh thái sáng tạo”, còn Nhà nước là người kiến tạo môi trường - hạ tầng - thể chế để sáng tạo nảy nở.
Vai trò kiến tạo của Nhà nước
Nhà nước không thể làm thay doanh nghiệp trong sáng tạo, nhưng có thể tạo điều kiện cho sáng tạo bùng nổ. Cụ thể, cần tập trung vào ba “đòn bẩy chính sách”.
Thứ nhất, xây dựng hạ tầng dữ liệu quốc gia đồng bộ - coi dữ liệu là “tài sản công chiến lược” tương tự đất đai, điện hay năng lượng.
Thứ hai, hình thành Chính phủ đổi mới sáng tạo, áp dụng sandbox, tạo không gian thử nghiệm cho công nghệ mới (AI, blockchain, sinh học số, vật liệu xanh).
Thứ ba, thúc đẩy tài chính cho đổi mới sáng tạo, bao gồm quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ nghiên cứu công - tư và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp tham gia vào chuỗi nghiên cứu - phát triển (R&D).
Nhà nước không chỉ “cầm lái”, mà còn “thắp lửa”, giúp khơi thông dòng chảy tri thức giữa các chủ thể: Nhà khoa học - doanh nghiệp - người dân.
Doanh nghiệp là trung tâm
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đổi mới sáng tạo chỉ thực sự bền vững khi doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm. Hàn Quốc có chaebol, Nhật Bản có keiretsu, Mỹ có Silicon Valley, Việt Nam cần hệ sinh thái doanh nghiệp sáng tạo Việt.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam, cần được hỗ trợ mạnh mẽ hơn để nâng cao năng lực công nghệ, quản trị và hội nhập số.
Cụ thể, cần thiết lập mạng lưới trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo vùng, kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu và quỹ đầu tư; phát triển “Trung tâm SME TechBridge” - cầu nối công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và FDI; khuyến khích hình thành liên minh đổi mới ngành hàng trong các lĩnh vực mũi nhọn như công nghiệp vật liệu mới, năng lượng sạch, logistics thông minh, y tế số.
Khi doanh nghiệp là hạt nhân của sáng tạo, Nhà nước đồng hành, và xã hội là nguồn lực, Việt Nam sẽ hình thành một “nền kinh tế kiến tạo tri thức” đúng nghĩa.
Sáng tạo gắn với văn hóa và giá trị Việt Nam
Đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ, mà còn là văn hóa - tinh thần - bản sắc Việt. Một dân tộc có truyền thống hiếu học, sáng tạo, kiên cường như Việt Nam có đầy đủ nền tảng để xây dựng nền kinh tế tri thức mang bản sắc Việt Nam - nhân văn, bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Vì vậy, phát triển sáng tạo cần gắn với: Giáo dục khai phóng và đạo đức nghề nghiệp, để tri thức đi cùng nhân cách; văn hóa doanh nghiệp và văn hóa đổi mới, coi thất bại là một phần của học hỏi; chính sách khuyến khích tài năng Việt kiều và kết nối trí thức toàn cầu để tạo “mạng lưới chất xám Việt Nam toàn cầu”. Chỉ khi sáng tạo trở thành một giá trị văn hóa, nó mới trở thành nguồn nội lực trường tồn của dân tộc.
Tầm nhìn đến 2045, Việt Nam trở thành quốc gia tri thức, công nghệ và sáng tạo. Nếu giai đoạn 1986-2025 là chặng đường “Đổi mới và công nghiệp hóa”, thì giai đoạn 2026-2045 là “Thời kỳ kiến tạo tri thức và sáng tạo Việt Nam”. Mục tiêu không chỉ là tăng trưởng, mà là phát triển chất lượng cao, nơi tri thức, dữ liệu và văn hóa sáng tạo trở thành vốn quốc gia.
Tầm nhìn đó đòi hỏi một chính phủ trí tuệ - doanh nghiệp sáng tạo - xã hội học tập, hợp lực cùng nhau kiến tạo “thịnh vượng xanh, số và nhân văn”. Khi đó, Việt Nam sẽ bước vào nhóm quốc gia phát triển bằng chính trí tuệ Việt Nam, đúng như tinh thần mà dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã đặt nền móng.
TS. Mạc Quốc Anh
Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội
Nguồn: https://hanoimoi.vn/mo-hinh-phat-trien-dua-tren-tri-thuc-cong-nghe-va-sang-tao-con-duong-tat-yeu-722869.html






Bình luận (0)